Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc ba nhà văn sáng
tác bằng ngoại ngữ: Samuel Beckett, Joseph Brodsky và Vladimir Nabokov.
Từ trái qua: Vladimir Nabokov, Samuel Beckett và Joseph
Brodsky.
Trong ngôn ngữ học, nhà văn viết bằng ngoại ngữ được gọi
là exophone. Đây là thuật ngữ mới do các nhà nghiên cứu văn học Đức đưa ra năm
2007, thế nhưng bản thân hiện tượng thì không mới: Nhà văn Ba Lan Joseph Conrad
trở thành nhà văn cổ điển Anh, nhà văn Do Thái thuộc cộng đồng tiếng Czech
Franz Kafka viết tiếng Đức, nhà văn Romania Emil Cioran viết tiếng Pháp, còn
Milan Kundera vừa viết cả tiếng Czech lẫn tiếng Pháp.
Nhà lý luận văn học Mikhail Bakhtin cho rằng ngôn ngữ là
thế giới quan riêng "được thẩm thấu bởi một hệ thống đánh giá, và gắn liền
với thực tiễn đời sống". Ngôn ngữ mẹ đẻ của nhà văn hình thành nên nhân
cách của anh ta, được thể hiện trong các cấu trúc ngôn ngữ và tư duy ngôn ngữ nói chung. Nhưng bản sắc ngôn ngữ của
các nhà văn song ngữ, nghĩa là những người có khả năng sáng tạo những tác phẩm
có giá trị thẩm mỹ bằng hai hoặc ba ngôn ngữ, là gì?
Wilhelm von Humboldt cho rằng có một "hình thái ngôn
ngữ bên trong" nào đó - phương thức phản ánh hiện thực đặc trưng cho mỗi
dân tộc, từ đó hình thành nên thế giới quan ngôn ngữ của dân tộc đó. Trong ngôn
ngữ học hiện đại, người ta sử dụng các thuật ngữ như "ý thức ngôn ngữ",
"tồn tại ngôn ngữ" và "bản sắc ngôn ngữ". Bản sắc ngôn ngữ
của nhà văn hình thành nên phong cách, từ vựng và thông điệp văn hóa của anh
ta.
Samuel Beckett
Nhà văn Nga Anatoly Ryasov nhận xét: "Ngoài Samuel
Beckett, không một nhà văn nào thể hiện sự tiến triển đáng kinh ngạc và sâu rộng
từ sự dư thừa ngôn ngữ của những tác
phẩm sơ kỳ đến sự kiệm lời của những tác phẩm hậu kỳ".
Khi bàn về những
thử nghiệm văn học đầu tiên của Beckett, James Joyce viết: Beckett biểu diễn
ngôn ngữ, cất giấu trong tác phẩm những ẩn dụ văn chương, ông triết lý,
nhưng vẫn bám chặt các quy tắc cổ điển
về thể loại. Đặt chân tới Paris vào năm 30 tuổi, nhà văn để lại phía sau những
khuôn khổ văn chương, và cùng với chúng là cái tiếng Anh phức tạp và phong phú.
Và chuyển sang tiếng Pháp một cách có ý thức, đồng thời giảm bớt lối văn
hoa mỹ.
Bộ ba tiểu thuyết viết bằng tiếng Pháp "Molloy"
(1951), "Malone meurt" (Malone hấp hối, 1951) và
"L'innommable" (Không thể gọi tên, 1953) đã mở đầu cho sự tối giản
ngôn ngữ của Beckett - nhân vật không có lai lịch, không hành động, lối viết
này đạt tới cực điểm trong các tác phẩm hậu kỳ của nhà văn.
Beckett đến với tiếng Pháp không nhằm mục đích tận dụng sự
phong phú của nó, mà để nó giúp ông nói ít hơn. Nếu như tiếng Anh vô tình đẩy
nhà văn tới sự dư thừa ngôn ngữ, thì tiếng Pháp giúp ông thoát khỏi những điền
phạm, thói quen văn học và tìm thấy phong cách "lánh đời" khiến ông
trở nên nổi tiếng.
Joseph Brodsky
Joseph Brodsky, ngược lại, mong muốn sử dụng sự đa dạng của các hình thái ngôn ngữ của
cả hai ngôn ngữ ông biết là tiếng Nga và tiếng Anh: "Hai ngôn ngữ dường
như chơi đùa với nhau. Giữa chúng diễn ra một sự giao thoa, các truyền thống va
chạm nhau, còn tôi sử dụng, khai thác điều đó" - Ông nói năm 1982
trong một bài trả lời phỏng vấn của nhà báo Hà Lan.
Phần lớn những bài thơ của Brodsky được viết bằng tiếng Nga, còn văn xuôi - hầu như tất cả
bằng tiếng Anh. Tiếng Nga đối với Brodsky là nguồn sáng tạo thi ca, còn tiếng
Anh là lý tưởng về sự hữu dụng ngôn
ngữ, vô cùng thích hợp với sáng tác tiểu luận. Từ giã "vũ trụ
Kafka" của Liên Xô năm 1972, để lại sau lưng một hệ thống xã hội, chủ
nghĩa bài Do Thái, sự dung tục... xét về mặt nào đó, ông đã để lại ở đấy hình ảnh
thi sĩ Nga Joseph Brodsky: thay đổi ngôn ngữ (tiếng Anh), tên tuổi (Joseph
Brodsky) và loại hình văn học (văn xuôi). Từ chối làm thơ bằng tiếng Anh, ông chuyển sang viết phê bình
văn học. Với học hàm Giáo sư Đại học
Michigan, sau đó là Đại học Columbia và các đại học khác của Mỹ, ông giảng bài
chỉ bằng tiếng Anh và tránh dùng tiếng Nga.
Sau khi nhận
giải Nobel văn học năm 1987, Brodsky
phát biểu: "Tôi là người Do Thái, nhà thơ Nga và nhà tiểu luận viết bằng
tiếng Anh".
Độc giả Nga hầu
không biết Joseph Brodsky như một nhà thơ viết bằng tiếng Anh. Ông bắt đầu từ
việc dịch và biên tập các tập thơ của mình, ngày càng tham gia tích cực
hơn vào công việc xuất bản chúng.
Các bài thơ tự dịch của Brodsky bị phê
phán: để gìn giữ hình thức và nội dung ông đã làm biến dạng ngữ pháp tiếng
Anh, thay đổi cú pháp, vi phạm quy tắc sử dụng mạo từ và động từ. Với mong muốn
biểu đạt những ẩn dụ phức tạp của nguyên bản, Joseph Brodsky đã khiến các nhà
phê bình nổi giận, họ không bỏ qua những sai sót ngôn ngữ của ông và sự thán phục
những người biết hai ngôn ngữ.
Dù sao, trong ý
thức độc giả tiếng Anh, hình ảnh Joseph Brodsky - nhà văn đậm nét hơn Joseph
Brodsky - nhà thơ. Bản thân ông cũng
rất chú ý để hình ảnh nhà tiểu luận Mỹ trưởng thành từ zero trong môi trường văn hóa Anh ngữ không trộn lẫn với hình
ảnh nhà thơ Petersburg bị trục xuất.
Vladimir Nabokov
Nabokov,
"con bướm song ngữ của văn hóa thế giới", từ nhỏ đã biết tiếng
Nga, tiếng Anh và tiếng Pháp. Năm 1946, trong bài trả lời phỏng vấn tạp chí
"Playboy", Nabokov nói: "Tôi là nhà văn Mỹ, sinh ra ở Nga, được
giáo dục ở Anh, nơi tôi học văn học Pháp, trước khi sống 15 năm ở Đức".
Cũng vào năm đó, khi phóng viên tạp chí "Life"
hỏi Nabokov ngôn ngữ nào đẹp nhất đối với ông, nhà văn trả lời: "Lý trí
mách bảo tôi rằng đó là tiếng Anh, trái tim - tiếng Nga, còn lỗ tai - tiếng
Pháp".
Nabokov công bố những truyện ngắn và tiểu thuyết đầu tiên
tại các nhà xuất bản ở Paris và Berlin với bút danh Sirin, thời trẻ ông đã nổi
tiếng là nhà văn Nga tài năng. Đến Mỹ năm 1940, ông chuyển sang tiếng Anh và bắt
đầu gây dựng sự nghiệp văn học từ zero với bút danh Nabokov. Sự lựa chọn ngôn
ngữ gắn liền với việc di cư, môi trường văn hóa khác, với sự tìm tòi những hình
thức sáng tạo mới và mong muốn chối bỏ tất cả những gì xảy ra trên Tổ quốc
mình, lúc bấy giờ đã là Liên Xô.
Sự thay đổi ngôn ngữ và phong cách diễn ra không dễ dàng
đối với Nabokov; trong lời tựa cuốn tự truyện "Những bờ bến khác"
(1954), ông viết: "Năm 1940, khi tôi quyết định chuyển sang tiếng Anh, tai
họa của tôi là ở chỗ trước đó, trong
vòng 15 năm có lẻ, tôi viết bằng tiếng Nga và trong những năm này tôi đã
để lại dấu ấn lên ngòi bút của mình".
Vẫn còn coi tiếng Nga là
ngôn ngữ "chính", nhà văn nhớ lại những khó khăn khủng khiếp của
sự thay đổi sắp tới và nỗi sợ hãi của việc đoạn tuyệt với cái ngôn ngữ sống động
mà Nabokov - Sirin đã chinh phục được một cách tài tình. Bốn năm sau, ông vẫn
còn âu yếm gọi tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ
"không nói hết nhạc điệu", và cay đắng mô tả việc chuyển sang
tiếng Anh "hàm súc" trong lời bạt tiểu thuyết "Lolita" được
xuất bản ở Mỹ: "Bi kịch riêng của tôi... là việc tôi buộc phải từ bỏ ngôn
ngữ tự nhiên, tiếng Nga giàu có, không bị gò bó, hết sức dễ bảo đối với tôi vì
một thứ tiếng Anh loại hai".
Nhưng đến năm
1965, Nabokov đã thất vọng nhận thấy "tiếng xủng xoảng của những sợi
dây đàn Nga han gỉ" khi dịch tiểu thuyết của mình: "Than ôi, cái
"tiếng Nga tuyệt đẹp" tưởng như vẫn chờ đợi tôi đâu đấy, vẫn nở hoa
như một mùa xuân trung thành sau cánh cổng kín mít mà bao nhiêu năm nay tôi vẫn
giữ chìa khóa, hóa ra không hiện hữu, và sau cánh cổng ấy không còn gì nữa
ngoài những gốc cây đã cháy trụi và chân trời mùa thu vô vọng, còn chiếc chìa
khóa trong tay tôi giống như một cái
móc sắt".
Mô típ chìa
khóa xuất hiện trong tác phẩm "Quà tặng": nhân vật chính viết thư cho mẹ rằng sẽ trở về nước Nga, vì
anh ta "mang theo chìa khóa của nó". Cuối tiểu thuyết, trong những
dòng cuối cùng được Nabokov viết bằng tiếng Nga, chiếc chìa khóa như là biểu tượng của tình yêu quê hương và tiếng mẹ đẻ, đã bị đánh mất,
và nhân vật Fyodor dừng lại trước
cánh cửa bị khóa.
Chuyển sang tiếng
Anh, Nabokov không giấu giếm sự lạ lẫm của mình trong đó; nhưng rồi ông
biến nó thành một ưu điểm về phong
cách. Dường như ông bay lượn trên ngôn ngữ, không hoàn toàn hòa lẫn với
nó.
Jean Bloch, nhà nghiên cứu tác phẩm của Nadokov kiêm nhà
văn song ngữ, viết về tiếng Anh của ông: "Ngôn ngữ này rất độc đáo và, dĩ
nhiên, nó bộc lộ nguồn gốc của tác giả, nghĩa là về hình thức cũng như về sự hàm súc của trí tuệ nó mang sắc
thái Nga khá đậm nét... vũ trụ của nhà văn, cách biểu cảm và tư duy của nhà văn
bay bổng trên ngôn ngữ và địa lý, nâng nhà văn không những lên tầm xuyên
quốc gia và xuyên văn hóa, mà còn xuyên ngôn ngữ ".
TRẦN HẬU
Theo báo Nga