Nhà văn Lê Văn Thảo
1. Không phải ngẫu nhiên trong tuyển tập truyện ngắn được
in cùng với tiểu thuyết Con đường xuyên rừng khi Lê Văn Thảo
được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, anh lại chọn tác phẩm Lên núi thả
mây để mở đầu cho tuyển tập truyện ngắn của mình. Bởi theo tôi, truyện
ngắn này như một tuyên ngôn sống và cũng là một tuyên ngôn nghệ thuật của anh
trước những vấn đề của thế sự nhân sinh. Nó là một điểm tựa, từ đó mở ra cái
nhìn của anh về cuộc đời, về lẽ sống trong cõi nhân gian mà nếu không có sự
nghiêm sinh và một tư tưởng nhân bản ắt hẳn không thể viết được một truyện ngắn
sâu sắc và giàu chất triết mỹ đến thế, như lời một nhân vật trong truyện đã
đã chia sẻ : “Cuộc sống lặng lẽ có từ lâu, trôi đi hoặc không hề trôi đi,
từ bao đời cha mẹ, ông bà chưa một lần lên đỉnh núi, cũng không có ý định lên,
đỉnh núi sát bên nhưng xa vời như một ảo ảnh” (Lên núi thả mây tr.138)
Nhưng ảo ảnh sao được!? khi những con người trong truyện đã
quyết tâm vượt qua bao khó khăn gian khổ và những nguy nan có thể ảnh hưởng tới
mạng sống của mình chỉ để thực hiện một điều tưởng chừng như “ngớ ngẫn”
là “lên núi thả mây” và xem việc ấy như một lẽ sống, trong khi ở chốn
nhân gian đầy bụi bặm này biết bao kẻ bon chen, giẫm đạp nhau, kiếm tiền, kiếm
chức, kiếm lợi quyền để được vinh thân phì da. Bởi, trong suy nghĩ của Năm Tính
- nhân vật trong truyện “Đâu phải làm việc gì cũng để kiếm tiền?” (tr.146) Vì
thấm nhuần cái lẽ sống giản dị nhưng không giản đơn này nên Năm Tính đã khuyên
những đứa con của mình như một lời chia sẻ với thế hệ sau: “Thôi chuyện lâu rồi,
hết thời của ba rồi. Giờ tới hai con. Hai con còn nhỏ cứ bắt đom đóm chơi, giỡn
với con chó. Nhưng lớn lên rồi phải làm một chuyện gì. Như một lần phải lên đỉnh
núi... Nhớ không?” (Lên núi thả mây tr.146). Có thể nói, lời nhắn gởi
này là một thông điệp đầy tính hàm ngôn mà nhà văn muốn chuyển tải đến người tiếp
nhận. Truyện ngắn Lê Văn Thảo, vì thế, bao giờ cũng thấm đậm vị nhân sinh và
đây cũng là cánh cửa mở ra cho người đọc soi chiếu vào cái cõi nhân sinh trong
vũ trụ văn chương của anh: Đó là cái cõi nhân sinh với bao số phận con
người mà anh đã gặp, đã sống, đã sẽ chia không chỉ trong những ngày tháng chiến
tranh mà cả thời hậu chiến.
2. Cũng như các tác phẩm văn học thời kỳ đổi mới, truyện
ngắn Lê Văn Thảo đã có sự thay đổi hệ hình trong tư duy sáng tạo mà rõ nhất là
cái nhìn về hiện thực cuộc sống. Từ những tác phẩm văn học đậm chất sử thi cách
mạng thời chiến tranh, ngòi bút của anh đã đi vào những vấn đề của cuộc sống đời
thường mà ở đó con người luôn đứng trước những “cơn bão” của áo cơm và sự
tha hóa nhân cách nếu không biết vượt lên những dục vọng thấp hèn đang ẩn nấu trong
chính bản thể mình. Cõi nhân sinh trong truyện ngắn của Lê Văn Thảo thời kỳ đổi
mới vì thế, cũng là “cõi người ta” mà ở đó luôn bày ra trước nhân gian những
buồn vui và đau khổ, những cay đắng và vinh quang, những được mất, thăng trầm...
trong cuộc đời với những con người “không muốn mình “thua” trong bất cứ chuyện
gì, đứng sau một chút cũng không được” (Chuyến bay Kinh hoàng tr.147)
nên họ sẵn sàng dẫm đạp lên nhau để sống, để hiển vinh và lúc đó mọi nghĩa tình
trong cuộc đời chỉ là những thứ phấn son xa xỉ. Chính vì vậy, trong
tâm thức hiện sinh của Lê Văn Thảo anh đã ước mơ làm sao sống được như “thời hồng
hoang, con người muông thú sống giao hòa” (Kể chuyện nghe chơi, tr.158).
Nhưng mơ ước cũng chỉ là mơ ước vì nền văn minh công nghiệp đã đẩy con người đi
quá xa với cái thuở hồng hoang của mình. Bao nhiêu tham
vọng lợi quyền đang làm tha hóa nhân cách và tâm hồn con người, đang
có nguy cơ đẩy còn người vào một cái thưở hồng hoang khác mà ở
đó lòng yêu thương cứ cạn dần còn thù hận thì chất chồng lên mãi, bởi đâu đó những
cuộc khủng bố vẫn cứ xảy ra, những cơn bão lũ, động đất đang đẩy bao số phận
con người vào cảnh bần hàn chỉ vì con người đang từng ngày tàn phá môi trường
sinh thái không chỉ trong tự nhiên mà còn trong chính tâm hồn của mình. Truyện
ngắn Anh Cà - kheo qua làng vì thế, là một diễn ngôn về khát vọng
một cuộc sống “hoang dã” tự do mà ở đó là những làng không có hàng rào, không
có sự ngăn cách, không có sự cấm cản nào cả. Bởi khi đi thăm làng “ngó nhìn hai
bên đường” Anh “than phiền làng nghèo quá, nhà cửa thưa thớt lè tè, nhưng hàng
rào lại cao nghệu. Đình chùa nghĩa địa cũng có hàng rào, kiên cố vững chãi như
bước tường thành. Coi vẻ anh không ưa hàng rào. Cả đời sống trên sông, chiếc
ghe tam bản giữa đường neo đậu, anh cần hàng rào làm gì?” (Anh Cà -
kheo qua làng, tr.175)
Có thể nói, hàng rào trong cái nhìn của Anh cà
kheo như một thứ lực cản vô hình không chỉ ngăn cách con người trong
cõi sống mà ngay cả cõi tâm linh. Không những thế nó còn giết chết khát vọng sống
tự do của con người. Vì vậy, sự “nổi loạn” của Anh Cà Kheo khi
phá vỡ mọi hàng rào của những người mà anh thuyết phục được như bà Mập bán quán
nhậu hay ông chủ ruộng giàu có là một sự nổi loạn hiện sinh để thực hiện khát vọng
tự do của mình. Vì trong quan niệm của anh: “giàu cũng không làm nên tích sự
gì, của cải rồi cũng trôi sông trôi biển. Anh nói: “chính cái đẹp cần phải được
ngắm nhìn.” (Anh Cà - kheo qua làng tr.174) và với anh sống “Cần phải
có tầm nhìn”. “Công việc càng nhiều tầm nhìn càng rộng” (Anh Cà - kheo qua
làng, tr.181)
Bức tranh nhân sinh trong truyện ngắn Lê Văn Thảo, vì thế,
là bức tranh lập thể nhiều sắc màu nên luôn mang tính đa nghĩa mà nếu người đọc
không tham chiếu nó từ những góc nhìn khác nhau, với những hệ triết mỹ khác
nhau thì sẽ không hiểu và cảm hết tính hàm ngôn từ những thông điệp mà diễn
ngôn truyện ngắn Lê Văn Thảo mang đến.
Là một nhà văn hiền lành, nhẹ nhàng nhưng thâm trầm và
sâu sắc, cõi nhân sinh trong truyện ngắn Lê Văn Thảo, vì thế cũng ẩn chứa
ý vị triết luận khiến người đọc luôn bị cuốn vào những ưu tư của anh, bởi chất
bi hài thâm thúy như một thứ “hương thầm” mà không phải nhà văn nào cũng tạo được
nơi người đọc, nếu không có sự trải nghiệm cuộc đời và một thiên năng.
Văn chương Lê Văn Thảo là văn chương khởi lên từ cuộc đời để từ đó tạo nên những
cuộc đời khác với nhiều mùi vị hiện sinh nên nó đeo đẳng mãi
trong tâm thức người tiếp nhận. Vì vậy, đến với văn chương Lê Văn Thảo ai cũng
thấy cuộc đời mình trong đó: Chiếc xe đạp, Thằng Cung, Cảnh quay phim
ngoài trời, Bốn cô gái trong đêm giao thừa, Người đàn bà khóc, Hai người cha...
là những câu chuyện đầy ám ảnh cảm thức hiện sinh như thế!
Truyện ngắn Lê Văn Thảo phần lớn là những câu chuyện bâng
quơ tưởng như không có chuyện. Nhưng dưới ngòi bút của anh, tất
cả thế giới nhân vật đã hiện lên với những số phận con người đang trôi dạt giữa
chốn nhân gian mênh mông này đều trở thành những câu chuyện mang đậm ý vị nhân
sinh... Và ở chỗ này truyện ngắn Lê Văn Thảo lại gần với truyện ngắn của Nam
Cao và Thạch Lam. Có gì đâu, chỉ là chuyện một người bạn mượn chiếc xe đạp đến
nhà một người bạn khác trong cơn say, rồi bỏ quên nơi ấy song đã để lại trong
lòng người chủ xe những hoài nghi, tự vấn... “Có đi rồi mới biết, thế giới rộng
lớn lắm, bạn bè cũng năm loại bảy kiểu. Có đứa thật bụng thương mình, có đứa
chơi với mình chỉ cốt khoe khoang, có đứa vừa thấy mình đã bỏ chạy. Nói chung vẫn
có những thằng giàu ấy tìm đến mình, chúng cần có bạn bè nghèo để so sánh, làm
nổi bật sự giàu sang của chúng.” (Chiếc xe đạp, tr.240) Đọc những dòng tự
vấn này, lòng ta không khỏi ngậm ngùi, ngẫm ngợi trước thế thái nhân tình. Và
khi nghĩ về việc mất chiếc xe đạp, nhà văn đã để cho nhân vật hạ một câu đầy ý
vị triết lý mà không phải giữa cuộc đời ngỗn ngang những được mất này ai cũng
nhận ra: “Đời vậy mà, có cái gì khổ với cái đó.” Và chính sự đốn ngộ này đã khiến
người mất xe nhận ra có những điều thiêng liêng và cao cả hơn mà lâu nay anh đã
đánh mất, đó là nỗi đau của những số phận con người mà trong trường hợp này là
Sáu Quang người bạn kháng chiến của anh. Vì vậy, khi được Tư Thanh thông báo đến
nhận chiếc xe “anh không nói gì cả, anh đã quên hẳn chuyện đó rồi. Nhưng nỗi
đau thì vẫn còn, cứ âm ỉ, thật chẳng ra làm sao. Sao đến nông nổi này?” (Chiếc
xe đạp,tr.244) Và từ những điều trăn trở này, khi nghĩ về những năm tháng
chiến tranh, điều găm lại trong tâm thức nhà văn là tình yêu và số phận con người.
Ta hãy nghe Lê Văn Thảo chia sẻ trong truyện ngắn Cảnh phim quay ngoài
trời: “Chúng ta chiến đấu như thế nào nếu không có tình yêu? Chiến tranh là
gì nếu không có những con người?” (Cảnh phim quay ngoài trời, tr.289)
Phải làm sao cho con người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc sau những gì họ hy
sinh cho đất nước, cho dân tộc chứ không phải như anh du kích Tám Luông trong
truyện Cảnh phim quay ngoài trời, trước kia đã chiến đấu với biết
bao thành tích lẫy lừng, giờ về nhà phải làm thuê vì không có ruộng. Và câu trả
lời phỏng vấn của anh với người diễn viên điện ảnh thật sáng trong, vô ưu nhưng
không khỏi làm lòng ta đắng chát:
“Bây giờ anh làm gì?” Anh diễn viên khui tiếp lon nước ngọt.
“ Làm ruộng, hết giặc rồi. Nhưng nhà không có ruộng, tôi
đi làm mướn.”
“Sao không có ruộng?”
“Tại không có vậy thôi.”
“Nói chuyện với anh ngộ lắm nhưng vai anh rất khó đóng.”
Chính vì vậy, mà câu chuyện làm phim nghiêm túc về thành
tích một người du kích dũng cảm bỗng chốc đã trở thành chuyện viễn vông, thậm
chí khôi hài khi Bà mẹ Tám Luông chia sẻ: “Ôi trời đất ơi, phim với ảnh! Có ai
sống được với hình bóng không?” Câu nói tưởng chừng giản đơn của một bà mẹ nhà
quê mà trong đó chứa bao điều để chúng ta suy ngẫm về cuộc sống nhân sinh. Chiến
tranh là vậy đó, đằng sau những vinh quang của một thời là những kiếp đời không
lành lặn, vênh lệch giữa chốn nhân sinh mà số phận “Bốn cô gái trong đêm giao
thừa” là như thế!? Ta hãy nghe lời kể của một người lính về sự hy sinh của đồng
đội mình và sự lỡ làng của đời một người con gái: “Cưới cái gì? Cô ta bắt tao
giả làm bồ đó. Nó là người yêu của thằng T, cùng đại đội mình, tụi bay quên rồi
sao? Thằng T chết rồi, trong trận tao bị thương ở đầu đó. Trước đó, hai đứa ăn ở
với nhau, con nhỏ có thai thằng T đi nghĩa vụ cái thai phải bị phá. Hôm tao về
báo tin thằng T chết, con nhỏ khóc nấc lên đánh tao liên hồi: “Anh T chết rồi,
con em cũng chết rồi, em sống với ai”. Dạo đó nó như con điên. Bà con họ hàng
không có, tao cũng không biết làm gì... Thôi mấy con nhỏ ngủ rồi, mình cũng ngủ
đi. Những chuyện như vậy làm sao kể cho hết...” (Bốn cô gái trong đêm
giao thừa, tr.305)
Vâng! những chuyện như vậy về số phận con người nhất là
người phụ nữ trong cuộc đời này này làm sao kể hết. Và có lẽ, thân phận
người phụ nữ với những nỗi khốn khổ và đau thương riêng có của mỗi người luôn
là điều ám ảnh trong sáng tác của Lê Văn Thảo mà những câu chuyện như Người
viết thư thuê; Bà nội tôi; Cô áo hồng, cô áo tím; Người đàn bà
khóc; Bốn bức thư; Đứa cháu gái; Chuyến xe giữa trưa mát dịu... đều là
những câu chuyện thể hiện niềm trắc ẩn của nhà văn về số phận của người phụ nữ.
Đó là những con người mà ở họ những khát vọng sống cao đẹp luôn bị dập vùi
trong khổ đau và cô độc như người con gái truyện Chuyến xe giữa trưa
mát dịu, Hay tự đánh lừa chính mình trước những vinh hoa phù phiếm của
Thu Nga trong truyện Cô áo hồng, cô áo tím, hoặc nỗi đau vì phải
làm một người tình hờ nếu không muốn nói là bị phụ tình của Tuyết trong truyện Người
đàn bà khóc khi chị khái quát một điều thật đắng cay: “Đành vậy thôi,
mấy anh mặc sức bay nhảy, đàn bà con gái chúng tôi chỉ biết chờ đợi (...) Vẫn
biết anh ấy đi đánh giặc chịu nhiều gian khổ, nhung tôi vẫn có cảm giác bị bỏ
rơi, thành gái già, mặc dù chưa đến hai mươi...” (Người đàn bà khóc, tr.308)
Và trong những câu chuyện Lê Văn Thảo viết về thân phận
con người, điều làm tôi ám ảnh đó là chuyện của cô Bé gái làm ô sin cho một người
chủ giàu có, nhờ người viết thư thuê viết một lá thư và đem sợi chuyền vàng vô
tình đánh rơi trong túi xách của của mình trả cho nhà chủ chỉ vì một điều
thiêng liêng, muốn chứng minh mình là người lương thiện, không phải là kẻ cắp.
Nhưng bi kịch ở chỗ, khi được người đưa thư minh oan thì cũng là lúc em bị ở tù
do tham gia một băng cướp nhí vì một “cách kiếm tiền khác”, điều mà cô bé đã
nói với người viết thư thuê trước đó. “Cách kiếm tiền khác!”, ông nhớ lại
lời nó. “Cách khác là nhu thế này đây? Ông nhìn tấm hình lần nữa, con nhỏ nhìn
lại ông ngạo mạng thách thức.” (Người viết thư thuê, tr. 173)
Và với sự thách thức này “Người viết thư thuê” như thấy
mình bất lực trước cuộc đời với biết bao số phận mà ông đã thay họ bày tỏ qua từng
con chữ trong những bức thư... Và những bức thư này cũng là cõi nhân sinh mà
ông cảm nhận được qua lời kể của biết bao người nhờ viết thư thuê, để rồi ông lại
cật vấn chính mình một cách đau đớn: “Ông xếp tờ báo lại, không đọc bài báo.
Ngày hôm đó và mấy ngày sau ông không đến bưu điện làm việc, nằm trong nhà nghĩ
ngợi vẩn vơ, hình ảnh con nhỏ lởn vởn trong đầu. Nó không ăn cắp, nó biết bản
thân nó. Giờ đây nó đang ở trong tù, cuộc đời trước mắt u ám mù mịt, ông làm gì
được cho nó? Rồi nhớ lúc đến nhà ông bà chủ. “Còn thiếu chữ nghĩa nào của ông
làm cho nhà này tan nát nữa không?”. Ông nhớ tất cả, cả cuộc đời viết thư thuê
của ông. Ông chỉ là người viết thư thuê, không dính líu gì, sao cứ vận vào hết
chuyện người này tới chuyện người khác?
Những bức thư của ông làm được gì? (Người viết thư
thuê, tr.173)
Vâng! “Những bức thư của ông làm được gì?”. Sự trăn trở của
ông già viết thư thuê trong truyện ngắn này, phải chăng đã đặt ra cho nhà văn
(những người viết) về trách nhiệm của mình trước số phận con người trong
cõi nhân sinh đầy bất an này. Và có lẽ, ở đâu đó trong chốn nhân gian này số phận
của những người nghèo khổ đang từng ngày, từng giờ cần sự “dấn thân” (J.P
Sartre) sự “xuống thuyền” (Abert Camus) của nhà văn với một tinh thần nhập cuộc
thật sự để góp phần làm thay đổi số phận của họ nếu có thể... Có như thế, nhà
văn mới làm tròn được thiên chức của mình...
3. Truyện ngắn Lê Văn Thảo viết từ sau thời kỳ đổi mới đã
thấm đẫm tinh thần nhân văn sâu sắc ấy. Vì thế, nó neo lại trong lòng người đọc
và thức nhận cho họ về sự chia sẻ và cảm thông với thân phận con người chứ
không chỉ đơn thuần ở những giải thưởng mà anh đạt được. Và đây cũng là điều
tôi muốn chia sẻ bước đầu qua những truyện ngắn của anh.
Tôi không muốn anh như người viết thư thuê “nằm nhà nghĩ
ngợi vẩn vơ” hay như những người bạn “lên núi thả mây”, hoặc như nhân vật Bình
dẫn chú bé “trở lại rừng” vì thấy mình cô độc, vô dụng sau ngày chiến thắng, mà
muốn thấy anh tiếp tục cảm hứng sáng tạo này để tạo nên một cõi nhân sinh đầy
tính nhân bản riêng có của anh với những cảm thông, chia sẻ sâu sắc về thân phận
con người trong tinh thần dấn thân của một nhà văn luôn song hành với nhân dân,
với số phận của những con người nghèo khổ.
Tôi tin và tôi kỳ vọng như thế vào hành trình sáng tạo của
anh...
Xóm Đình An Nhơn, 16.4.2016
TRẦN HOÀI ANH
Nguồn: NVTPHCM
_____________
*Những trích dẫn trong bài
đều lấy trong Tuyển tập truyện ngắn của Lê Văn Thảo, Nxb. Văn
học, Hà Nội, 2014.