Dẫn luận
Manh nha vào những năm 70 của thế kỉ 20, đến giữa thập
niên 90, Phê bình sinh thái đã thực sự trở thành một khuynh hướng nghiên cứu
văn học ở Mĩ và lan ra nhiều nước khác trên thế giới. Ở Việt Nam, một điều lạ
lùng là sau đổi mới, giới nghiên cứu văn học khá cởi mở trong việc tiếp thu, giới
thiệu các lí thuyết văn học phương Tây hiện đương đại, nhưng lại rất thận trọng
đối với Phê bình sinh thái. Ngay cả các lí thuyết mới mẻ như Chủ nghĩa lịch sử
mới, Chủ nghĩa duy vật văn hóa hay lí thuyết tương đối nhạy cảm như Diễn ngôn
quyền lực của Foucault cũng đã được nhắc đến ở Việt Nam, nhưng riêng Phê bình
sinh thái lại vắng bóng. Dẫn đến hiện tượng trên, có lẽ, một phần rất lớn bắt
nguồn từ chính sự mới mẻ một cách đặc thù của khuynh hướng nghiên cứu này.
Thông thường, cách tân rất dễ thu hút sự chú ý, nhưng sự cách tân của Phê bình
sinh thái lại có những đặc điểm riêng khiến cho sự phát triển, mở rộng nó gặp
không ít trở ngại.
Trong bài viết này, người viết sẽ làm sáng tỏ một số cách
tân bản chất của phê bình sinh thái trên phương diện tư tưởng nòng cốt, sứ mệnh,
nguyên tắc thẩm mĩ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu; bên cạnh đó cũng lưu tâm đến
hạn chế, khó khăn trong việc mở rộng, phát triển của khuynh hướng nghiên cứu
này.
1. Cách tân về tư tưởng nòng cốt
Lịch sử nghiên cứu văn học gắn liền với sự liên tục ra đời,
phát triển và thay thế lẫn nhau của các loại lí thuyết, lí thuyết ra đời sau
bao giờ cũng đem đến những cách tân, bổ khuyết cho những gì còn hạn chế của lí
thuyết trước, đề xuất nguyên tắc, đối tượng, phương pháp, mục đích nghiên cứu
riêng, thế nhưng, dù là Chủ nghĩa hình thức, Chủ nghĩa cấu trúc, Mĩ học tiếp nhận,
Phê bình nữ quyền, Chủ nghĩa lịch sử mới, hay Chủ nghĩa duy vật văn hóa… thì
chúng vẫn nằm trong ảnh hưởng của tư tưởng “nhân loại trung tâm luận”, vì thế,
việc tiếp nhận chúng trở nên thuận lợi hơn. Trong khi đó, Phê bình sinh thái ra
đời lại mang theo một tư tưởng nòng cốt khác so với nền tảng tư tưởng đã ngự trị
trong lịch sử nhân loại nhiều thế kỉ: đó là lấy “sinh thái trung tâm luận” làm
nền tảng. Nhiều thế kỉ qua, nhân loại kiêu hãnh với quan niệm “con người là
trung tâm của thế giới”, “con người là tinh hoa của muôn loài”, và coi việc
chinh phục tự nhiên như một trong những mục đích vĩ đại, một phương thức khẳng
định sức mạnh của mình, khẳng định địa vị của con người trong vũ trụ. Sách vở cổ
kim đông tây không ít những dẫn chứng thể hiện tư tưởng đó. Chính vì thế, Phê
bình sinh thái đề xuất lấy “sinh thái trung tâm luận” làm nền tảng tư tưởng đã
tạo ra một cực tư tưởng khác mà muốn tiếp nhận nó, buộc chúng ta phải thay đổi
rất nhiều thứ đã ăn sâu trong tiềm thức mình. Tư tưởng hạt nhân của phê bình
sinh thái là Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái (ecological holism), có nguồn gốc từ
quan niệm hài hòa, tương hỗ, hệ thống của sinh thái học, từ tư tưởng sinh thái
của Engels, Darwin, từ triết học sinh thái của Heidegger, từ triết học sinh
thái chỉnh thể luận đương đại… “Tư tưởng hạt nhân của chủ nghĩa chỉnh thể sinh
thái là coi lợi ích chỉnh thể của hệ thống sinh thái là giá trị cao nhất; lấy sự
có ích hay không có ích đối với việc bảo vệ, duy trì hoàn chỉnh, hài hòa, ổn định,
cân bằng sinh hệ thống sinh thái làm thước đo, tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá
sự phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế và tiến bộ khoa học kĩ thuật cũng như
phương thức sống của nhân loại”[1]. Để tư tưởng này được phổ cập,
cũng có nghĩa là để có một nền tảng tư tưởng cho Phê bình sinh thái lan rộng
hơn và phát triển hơn không phải chuyện một sớm một chiều. Tất nhiên, nói như
thế không có nghĩa là các nhà Phê bình sinh thái phản đối vấn đề lợi ích của
con người. Họ vẫn tán thành, ủng hộ chủ nghĩa nhân bản khi xử lí các vấn đề xã
hội, tôn trọng con người, bảo hộ quyền con người, công bằng, chính nghĩa, họ chỉ
phản đối tư tưởng cao ngạo, mù quáng khi nhìn nhận quan hệ giữa con người và tự
nhiên, coi con người là linh hồn của vạn vật và từ đó tùy ý bóc lột tự nhiên,
coi việc chiếm đoạt, chà đạp tự nhiên làm phương thức khuếch trương bản thân.
2. Mang một sứ mệnh mới
Có lẽ trong lịch sử nghiên cứu văn học chưa từng có một
trào lưu nghiên cứu nào mang một sứ mệnh đặc thù như Phê bình sinh thái. Sứ mệnh
của Phê bình sinh thái là nhìn nhận lại văn hóa nhân loại, tiến hành phê phán
văn hóa, chỉ ra căn nguyên văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái. Vấn đề
sinh thái là vấn đề toàn cầu, đồng bộ ở các nước, không phân chia biên giới, thể
chế chính trị, giai tầng xã hội. Mặc dù căn nguyên tư tưởng ở mỗi quốc gia có
thể khác nhau, nhưng nguy cơ sinh thái hiện nay cũng như giải quyết nó là vấn đề
chung đòi hỏi cộng đồng các quốc gia cùng góp sức. Nghiên cứu văn học thế giới
đã trải qua nhiều lần chuyển trung tâm, như chuyển từ tác giả sang văn bản, người
đọc, văn hóa và đến Phê bình sinh thái, mặc dù vẫn tiếp tục xu hướng ngoại hóa
trong nghiên cứu văn học nhưng đã mang một sứ mệnh hoàn toàn mới. Mang một sứ mệnh
cao cả này, một phần rất lớn là Phê bình sinh thái ra đời không phải từ khát vọng
sáng lập lí thuyết mới của các nhà phê bình, cũng không phải xuất phát từ nội bộ
nghiên cứu văn học, mà là từ sự thúc đẩy của nguy cơ sinh thái. Không ít người
đã dự đoán rằng, hiện nay, nguy cơ lớn nhất mà loài người phải đối mặt là nguy
cơ sinh thái, thế kỉ 21 sẽ là thế kỉ của trào lưu sinh thái, là thời đại của việc
sáng lập văn minh sinh thái. Các nhà phê bình sinh thái ý thức được rằng, văn học
nhân loại cần phải có trách nhiệm với nguy cơ này, bởi bản thân văn học cũng là
một trong những nguyên nhân văn hóa sâu xa tạo nên nguy cơ đó. Greg Garrad cho
rằng: “Vấn đề môi trường không chỉ cần phân tích từ góc độ khoa học, mà còn cần
phân tích từ góc độ văn hóa”[2]. Văn học phản sinh thái tiếp tục
phát triển cũng sẽ góp phần kéo theo sự tiếp diễn của nguy cơ sinh thái. Bởi vì
“chúng ta làm gì đối với sinh thái phụ thuộc vào quan niệm của chúng ta về quan
hệ giữa con người và tự nhiên”[3].Nhà văn, nhà phê bình phải thông
qua cải tạo văn học, cải tạo quan niệm văn học để hạn chế mắc lỗi với tự nhiên
và thậm chí chuộc lỗi với tự nhiên. W.E.B.Du Bois từng dự đoán: Vấn đề chung rộng
lớn của thế kỉ 20 là vấn đề chủng tộc. Đến đầu thế kỉ mới, dấu tích của vấn đề
này vẫn không hề phai mờ. Nhưng, còn một vấn đề có lẽ là bức thiết hơn, đó là đối
với tuyệt đại đa số cư dân trên địa cầu, nếu như không tiến hành cải cách mạnh
mẽ phương thức sống hiện nay, thì trái đất liệu có còn sức sống nữa hay không?[4]
Như vậy, sứ mệnh của phê bình sinh thái là nghiên cứu tư
tưởng, văn hóa, khoa học, phương thức sống và phương thức sản xuất, mô hình phát
triển xã hội của con người đã ảnh hưởng như thế nào đến hiện tượng xấu đi của
môi trường tự nhiên, đã dẫn đến nguy cơ sinh thái như thế nào. Từ đây có thể thấy,
Phê bình sinh thái là một khuynh hướng nghiên cứu mang đậm tinh thần phê phán
văn hóa. Phê bình sinh thái muốn hướng đến cải cách văn hóa tư tưởng, thúc đẩy
cách mạng phương thức sống, phương thức sản xuất, mô hình phát triển, xây dựng
văn minh sinh thái.
3. Xây dựng trên nguyên tắc mĩ học riêng
Phê bình sinh thái không chỉ lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh
thái làm tư tưởng triết học nền tảng mà còn lấy thẩm mĩ sinh thái làm nguyên tắc
chỉ đạo. Nếu không xác định được nguyên tắc mĩ học riêng, Phê bình sinh thái sẽ
không khác gì các hoạt động nghiên cứu môi trường thông thường. Phê bình sinh
thái phải “một chân đặt ở địa cầu, một chân đặt ở văn học”. Lý Khánh Bản cho rằng:
“Trên cơ sở sinh thái chỉnh thể luận, chủ trương của mĩ học sinh thái là thống
nhất hài hòa giữa con người và tự nhiên, con người và xã hội, con người và bản
thân chứ không phải là con người chiếm hữu, chinh phục và cải tạo tự nhiên,
không chủ trương quan điểm lao động sáng tạo ra cái đẹp”[5]
Trước tiên, thẩm mĩ sinh thái là thẩm mĩ mang
tính tự nhiên, nó không phải là sự trừu tượng hóa trên cơ sở kinh nghiệm thẩm
mĩ cụ thể, cũng không phải là thông qua đối tượng cụ thể thể hiện tư tưởng tình
cảm, nhân cách của chủ thể thẩm mĩ. Trong thẩm mĩ sinh thái không tồn tại quan
hệ chủ thể – khách thể, con người cảm nhận tự nhiên, thiết lập quan hệ chủ thể
tương giao với đối tượng thẩm mĩ. Mặc dù trong lịch sử mĩ học, cái đẹp tự nhiên
vẫn được bàn đến, nhưng phần lớn các nhà tư tưởng đều coi cái đẹp nghệ thuật,
cái đẹp trong cuộc sống đẹp hơn cái đẹp tự nhiên. Nếu có thừa nhận, coi trọng
cái đẹp tự nhiên thì thường cho nó là sự ngoại hóa của sức mạnh hoặc thế giới
tinh thần của con người. Hegel từng cho rằng chỉ có cái đẹp nghệ thuật mới là
cái đẹp chân chính. Trong truyền thống, trên cơ sở nền tảng của Chủ nghĩa nhân
loại trung tâm, đối tượng thẩm mĩ tự nhiên chỉ được coi là phương tiện, biện
pháp, kí hiệu, vật đối ứng, công cụ biểu hiện, ám thị, tượng trưng cho thế giới
nội tâm, đặc trưng nhân cách của con người. Các nhà Phê bình sinh thái lại chủ
trương, không thể dùng con mắt công cụ, công lợi để đối đãi đối tượng thẩm mĩ tự
nhiên. Bài trừ thẩm mĩ công cụ hóa cũng trở thành ranh giới phân chia thẩm mĩ
sinh thái và thẩm mĩ phi sinh thái. Bên
cạnh đó, thẩm mĩ sinh thái đề cao tính chỉnh thể, không chỉ quan tâm đến đối
tượng thẩm mĩ đơn nhất, mà còn đặt nó vào trong hệ thống tự nhiên, từ đó khảo
sát ảnh hưởng của nó đối với chỉnh thể sinh thái. Tiêu chuẩn đánh giá cái đẹp của
thẩm mĩ sinh thái cũng khác so với truyền thống. Đối với thẩm mĩ sinh thái, cái
gì có lợi cho sự ổn định, hài hòa của hệ thống sinh thái mới là Đẹp; phá hoại
chỉnh thể, phá hoại sự ổn định sinh thái sẽ bị coi là Xấu. Trong mĩ học truyền
thống, con người trở thành tiêu chuẩn, thành thước đo, còn đến Phê bình sinh
thái, thước đo lại là chỉnh thể sinh thái. Ngoài ra, thẩm mĩ sinh thái
còn đề cao nguyên tắc dung nhập. Thẩm mĩ sinh thái yêu cầu tinh thần và thể
xác thấu nhập vào tự nhiên, có lúc, thậm chí còn phải quên đi bản ngã, hòa với
tự nhiên làm một. Muốn thực sự dung nhập vào tự nhiên, đặc biệt là muốn trong sự
dung nhập đó cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp của tự nhiên thì trước hết phải quên đi bản
ngã của mình. Quên đi bản ngã để cảm nhận tự nhiên chính là một phương thức của
thẩm mĩ sinh thái. Con người không thể phát hiện ra hết cái kì diệu của tự
nhiên chính vì quá tự cao tự đại, coi tự nhiên chỉ là công cụ nhằm đối tượng
hóa bản ngã, chỉ có cảm thụ một cách vô tư, không mục đích mới có thể cảm nhận
được càng nhiều cái đẹp, cái kì thú của tự nhiên.
4. Xác lập đối tượng, phạm vi nghiên cứu riêng
Để hình thành một lí thuyết phê bình văn học, một điều
không kém phần quan trọng chính là xác định được đối tượng, phạm vi nghiên cứu
đặc thù. “Phê bình sinh thái là phê bình bàn về quan hệ giữa văn học và môi trường
tự nhiên”(Cheryll Cglotfelty). Đối tượng của phê bình sinh thái không phải chỉ
là văn học sinh thái, không phải chỉ là những tác phẩm miêu tả phong cảnh tự
nhiên. Có miêu tả tự nhiên hay không không phải là điều kiện tất yếu để triển
khai phê bình sinh thái. Chỉ cần có căn nguyên văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ
sinh thái, chỉ cần có ảnh hưởng đến quan hệ giữa con người và tự nhiên, thậm
chí, tác phẩm văn học cho dù hoàn toàn không đả động gì đến cảnh vật tự nhiên,
mà chỉ bàn đến chính sách phá hoại sinh thái, bàn đến một phương thức sống của
xã hội tiêu dùng, một sự kiện ô nhiễm môi trường… đều có thể trở thành đối tượng
quan tâm của phê bình sinh thái. Cho nên, dùng góc nhìn sinh thái, có thể khảo
sát văn học đông tây kim cổ, đặc biệt là những tác phẩm kinh điển có ảnh hưởng
lớn đến văn minh nhân loại cũng như biến động xã hội; có thể tiến hành đọc lại
các tác phẩm trong quá khứ, tìm ra ý nghĩa sinh thái tiềm ẩn trong đó, tất
nhiên, cũng bao hàm việc chỉ ra những hạn chế của nó trong tương quan với chỉnh
thể sinh thái. Như vậy, sẽ góp phần bổ sung cho những khuyết thiếu trong lịch sử
nghiên cứu văn học nhân loại. Chẳng hạn, ngay trong thần thoại, suốt bao nhiêu
năm, giảng dạy và nghiên cứu luôn đề cao khát vọng khám phá, chinh phục tự
nhiên, nhưng nếu nhìn từ góc độ sinh thái, vấn đề đã trở nên khác biệt.
5. Cách tân nhưng không phải là vạn năng
Không thể phủ nhận, Phê bình sinh thái ra đời đã mang đến
cho nghiên cứu văn học, mĩ học một góc nhìn mới, khai mở một không gian mới,
mang đến một động lực phát triển mới, bổ sung cho những khoảng trống trong
nghiên cứu văn học từ trước đến nay. Lí luận phê bình văn học đã trải qua nhiều
lần chuyển trung tâm nghiên cứu, nhưng quan hệ giữa văn học và tự nhiên vẫn
chưa thực sự được quan tâm đúng mức, điều này ít nhiều tạo nên sự mất cân bằng
trong hệ thống tri thức nghiên cứu văn học. Phê bình sinh thái ra đời đã bổ
sung cho những khuyết thiếu trong nghiên cứu văn học trước kia, đồng thời góp
phần điều chỉnh cho những thiên lệch trong nghiên cứu văn học đương đại. Nó nhấn
thêm một bước trong chuyển động vượt ra ngoài phạm vi nghiên cứu bản thể luận,
chuyển sang xã hội, văn hóa, đồng thời cũng hóa giải khuynh hướng kinh viện,
thoát li hiện thực, thúc đẩy nghiên cứu văn học “nhập thế”- nhà nghiên cứu
không chỉ đơn thuần quan tâm đến học thuật, mà còn cần phải gánh vác trọng
trách phê phán văn hóa tư tưởng xã hội, phổ cập ý thức sinh thái, góp phần xây
dựng văn minh sinh thái.
Những cách tân, đóng góp của Phê bình sinh thái là không
thể phủ nhận, mặc dù có những đột phá nhưng cũng như tất cả các lí thuyết văn học
khác, Phê bình sinh thái không phải là vạn năng, không thể bao hàm tất cả
nghiên cứu văn học, nó chỉ là một nhánh của nghiên cứu văn học mà thôi. Sự ra đời
của nó không có nghĩa là phủ nhận, thay thế và cũng không thể phủ nhận, thay thế
các khuynh hướng nghiên cứu khác. Phê bình sinh thái chỉ muốn chứng minh rằng:
nguy cơ sinh thái đang là vấn đề vô cùng hệ trọng liên quan đến sự tồn vong của
toàn nhân loại; nhà văn, nhà phê bình cũng nên đóng góp tiếng nói của mình vào
việc giải trừ nguy cơ sinh thái.
Kết luận
Với việc hướng tới quan hệ giữa văn học và tự nhiên dưới
sự chỉ đạo của chủ nghĩa sinh thái, đặc biệt là tư tưởng chỉnh thể sinh thái;
làm rõ căn nguyên văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái, đồng thời chú ý đến
thẩm mĩ sinh thái và các biểu hiện nghệ thuật khác của văn học, Phê bình sinh
thái đã tự tạo cho mình một diện mạo mới. Nhưng do sự phổ cập tư tưởng sinh
thái cũng như xây dựng văn minh sinh thái vẫn còn dừng lại ở mức độ nhất định;
yêu cầu cân đối giữa “nhân loại trung tâm luận” và “sinh thái trung tâm luận” vẫn
còn nhiều vấn đề; hơn nữa văn học hàng nghìn năm hầu hết là sản phẩm được sáng
tạo trên nền tảng tư tưởng “nhân loại trung tâm luận”, cho nên, sự mở rộng,
phát triển của Phê bình sinh thái cũng gặp không ít trở ngại.
Phát triển Phê bình sinh thái ở Việt Nam, bên cạnh những
khó khăn chung, còn gặp những khó khăn riêng do hoàn cảnh đặc thù, vì Phê bình
sinh thái là một bước tiến dài trong hành trình “ngoại hóa” của nghiên cứu văn
học phương Tây, nó ít nhiều có nền tảng trong chuyển hướng văn hóa của nghiên cứu
văn học, trong khi đó, thành tựu của sự chuyển hướng này ở Việt Nam chưa thực sự
rõ rệt. Tuy nhiên, nguy cơ sinh thái đang là vấn đề của toàn cầu, trong truyền
thống văn học Việt Nam cũng có không ít nhân tố sinh thái…cho nên, việc phát
triển Phê bình sinh thái ở Việt Nam trong thời điểm hiện nay là cần thiết và có
cơ sở.
ĐỖ VĂN HIỂU
Nguồn: Phê bình văn học
Chú thích:
[1] 王诺: 《欧美生态批评》。 学林出版社, 2008年, 24页
[2] Greg Garrad: Ecocriticism, Abingdon:
Routl, 2004, pp 14
[3] “The historical Roots of our ecologic critis”, Cheryll
Cglotfelty & Harold Fromm (ed), The ecocriticism Reader; Landmarks
in literary Ecology. Athens: The university of Georgia Press, 1996,
pp12
[4] Lawrence Buell: 环境危机与文学想象(刘蓓 译)。北京大学出版社,2010年,7页。
[5] 季庆本:“从生态美学看实践美学”, 荆亚平(编选)《中外生态文学文论选》浙江工商大学出版社,2010年,348页。