Nhà văn Trần Thanh Giao (bên phải) và nhà thơ Bùi
Tuyết Mai
1. Dẫu biết quy luật một đời người cuối cùng rồi cũng phải
trở về với cát bụi, nhưng cái tin nhà văn Trần Thanh Giao quy tiên đối với tôi
vẫn là quá đột ngột. Tôi không thể tin được cây đại thụ của văn nghệ, báo chí
Việt Nam đã giã biệt cõi đời này. Tôi cảm thấy ông vẫn còn đấy. Con người ông
nhỏ thó và rắn rỏi, khuôn mặt với những nếp nhăn của thời gian và tuổi tác vẫn
không giấu được đôi mắt tinh anh, ánh nhìn nhạy bén cùng với nét cười răng khuyết
rất đặc biệt. Vẫn là người đàn ông mà sự hiểu biết toát ra từ ánh nhìn ban đầu
bạn tiếp xúc đến giọng nói chậm rãi, giàu trải nghiệm, cẩn trọng trong từng câu
chữ và luôn luôn hài hòa, với phong thái lịch thiệp của một người đã kinh qua
Tây học.
Nhớ lần đầu gặp ông vào năm 1996 tại Hà Nội, hai năm trước
khi tôi được là đại biểu Hội nghị Những người viết văn Trẻ toàn quốc lần thứ V
(1998). Chúng tôi cùng uống trà ở một tiệm trà thanh lịch, nằm khá sâu trong một
cái ngõ nhỏ, gần với hồ Trúc Bạch. Trước đó, tôi đã đọc khá nhiều tác phẩm của
ông. Lúc bấy giờ, ngồi trước mặt tôi đích thực là nhà văn Trần Thanh Giao bằng
xương bằng thịt, và chúng tôi bàn về những bài báo, bài ký, tiểu luận hoặc phê
bình văn chương Đông, Tây, kim, cổ của ông. Văn của ông thật rất ăn khớp với
người. Giọng cười của ông cũng thật đa dạng, lúc thì mủ mỉ kín đáo, lúc lại cao
hứng như thác nước đổ.
2. Trong những tranh luận bên ly trà của chúng tôi, có
khi cứ trở đi, trở lại vấn đề “nóng” của đời sống văn nghệ: Để có tác phẩm hay.
Tôi nhớ những đúc kết của ông đọng lại. Người-Văn ấy đã tìm thấy ngọc và lấy đó
làm ánh sáng để soi chiếu vào những trang viết của mình, và cũng để phần nào
giúp cho những người bạn văn cùng chia sẻ, bàn luận và lựa chọn cho mình một hướng
đi:
- Dẫu biết văn chương là để giãi bày nỗi niềm, số phận,
thu hút sự ham mê của người đọc, nhưng giãi bày để làm gì, câu trả lời là để
nâng đỡ con người, làm cho nó cao thượng lên chứ không làm cho nó hèn đi, thấp
đi.
- Nỗi niềm và số phận của một kiếp người có hàng ngàn,
hàng vạn, vẽ ra được đã là khéo, nhưng tư tưởng nhân văn của tác phẩm về những
nỗi niềm và số phận, mới là cái khó tìm, khó vẽ, mới là cái có giá trị nhất
trong văn chương.
- Vẽ mây, vẽ gió được đã khéo, nhưng vẽ cho đến mức Non
cao non thấp mây thuộc/ Cây cứng cây mềm gió hay như Nguyễn Trãi mới
thật khó, mới thật hay, mới là nét vẽ của bậc thiên tài. Cho nên từ xưa, hiện
nay và sau này vẫn vậy, văn chương hay, nhất là văn xuôi, không thể chỉ có nỗi
niềm và số phận, mà trên nỗi niềm và số phận là một tư tưởng nhân văn sâu sắc,
và những vẻ đẹp làm mê mẩn lòng người.
- Đã đến lúc cùng nhau nêu ra định nghĩa: tác phẩm
hay là tác phẩm làm rung động sâu sắc, lâu bền trái tim người thưởng thức vì những
giá trị chân thiện mỹ mà nó chứa đựng.
Năm 2015, ngay trong Đại hội Nhà văn, tôi nhận được món
quà quý của ông. Đó là cuốn Tiểu luận phê bình của Trần Thanh Giao, Cánh
hạc & Tiếng chuông, Nxb Hội Nhà văn, 2014. Bìa phụ là dòng chữ bút
mực còn tươi rói, ông đề Thân tặng Bùi Tuyết Mai và cẩn thận
ghi Hà nội 2015 rồi ký tên. Cùng với cuốn sách là một chiếc đồng
hồ nữ mạ vàng rất đẹp, rất thanh lịch, viền kim loại màu vàng, mặt và dây đeo
màu đỏ nâu tía, lấp lánh ánh bạc ẩn phía trong khung kim giây chạy, là tháp
Effel. “Anh mua nó trong một chuyến thăm Thủ đô Paris, nước Pháp. Tặng em!” Tối
hôm đó, rất khuya, sau khi ngồi cùng cánh nhà văn trẻ từ miền núi phía Bắc, tôi
mới lần giở từng trang cuốn cảo thơm này của người bạn vong
niên. Tôi đã thức luôn đến sáng với cuốn sách, tìm thấy trong đó những ký ức về
cuộc trao đổi của chủ nhân cuốn sách với mình từ thập niên cuối cùng của thế kỷ
XX, hiện cũng nằm trong cuốn sách.
Cuốn sách này của ông, tôi luôn luôn mang theo để đọc mỗi
khi có thì giờ. Và chiếc đồng hồ ấy, cũng trở thành vật bất ly thân của tôi, kể
từ khi ông tặng.
3. Ông đặc biệt yêu thích cuốn Mái Tây của
Vương Thực Phủ. Lại nhớ, một dịp ông ra Hà Nội họp, chúng tôi có hai ngày đi
lên Mường. Đi lên tỉnh Hòa Bình, một địa danh nổi tiếng của người Việt cổ, với
ông đây là một dịp “rất đáng để tiêu thời gian vào đó!”. Chúng tôi đi đại tứ Mường:
Nhất Bi (huyện Tân Lạc), nhì Vang (huyện Lạc Sơn), tam Thàng (huyện Kỳ Sơn và
Cao Phong), tứ Động (huyện Kim Bôi), bốn vùng Mường cổ nhất, lớn nhất của Việt
Nam tại tỉnh Hòa Bình. Cũng trong chuyến đi này, tôi được biết cái bút
danh Song Văn của anh là do anh rất yêu thích Mái Tây của Vương Thực
Phủ mà ra. Ông khuyên tôi nên đọc cuốn ấy, vì cái kịch ấy cũng đã hay, nhưng lời
bình của Kim Thánh Thán sau mỗi chương là những chỉ dẫn vô cùng hữu ích cho những
người viết văn có tài năng - những người “thợ trời”.
Nhà văn Trần Thanh Giao (bên phải) vànhạc sĩ Nguyễn Tài
Tuệ
4. Mỗi lần tôi có tác phẩm được đăng Báo Văn Nghệ,
hoặc trên các diễn đàn, ông đều đọc thấy và là người cho nhận xét. Chúng tôi có
những người bạn chung, một trong số họ là nhạc sĩ tài danh Nguyễn Tài Tuệ. Lần
gặp gỡ gần đây nhất của chúng tôi cũng tại Đại hội Nhà văn (2015). Buổi tối,
chúng tôi đến thăm nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ tại nhà riêng, phố Khương Trung, Hà Nội.
Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy hai ông già ôm nhau một cách vô cùng mừng rỡ
và đằm.
Hóa ra, họ từng quen và dõi theo nhau từ năm 1976. Khi ấy,
nhà báo Trần Thanh Giao đã gặp và phỏng vấn nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ, Trưởng phòng
Nghệ thuật của Đoàn Ca Múa Nhạc Việt Nam, nhân dịp nhạc sĩ đưa đoàn văn nghệ
sĩ, diễn viên vào Thành phố Hồ Chí Minh biểu diễn mừng một năm thắng lợi, non
sông thu về một mối.
Hai ông đều thuộc hàng “Tây học trong nước lớp đầu” từ
trước Cách mạng Tháng Tám 1945. Trần Thanh Giao học ở Cần Thơ, Nguyễn Tài Tuệ học
ở Sài Gòn. Cả hai đều phát âm và dùng rất chính xác văn phạm tiếng Pháp, nhưng
lại rất thống nhất với nhau về quan điểm, quan niệm sáng tác. Do có công cụ
ngôn ngữ tiếng Pháp trong tay, đồng thời lại có vốn cha mẹ để lại là chữ Hán và
chữ Nôm, cả hai có điều kiện để tìm đọc sâu, học hỏi kỹ các giá trị văn học và
âm nhạc của phương Đông, phương Tây. Trong cuộc gặp gỡ hiếm hoi ấy, tôi đã được
nghe tiểu kết của Trần Thanh Giao: Nếu như cái thuyết cốt lõi của văn học
phương Tây là chủ nghĩa nhân văn (humanisme; humanism) thì trong thơ văn
Việt Nam có thuyết “nhân nghĩa” (humanité et loyauté; bennevolence and
righteousness) đồng thời được bổ sung thêm các giá trị nhân bản khác.
Nếu cứ dõi theo hệ thống các tác phẩm của Trần Thanh
Giao - Dòng sữa (truyện ngắn, 1962); - Đi tìm ngọc (truyện
1964, 1972, 1987, 2002); - Cầu sáng tiểu thuyết 1976,
1985); - Đất mới vỡ (tiểu thuyết 1978, 1981); - Giữa
hai làn nước (truyện 1979); - Sao Mai gần gũi (truyện
và ký 1983); - Một vùng sông nước (truyện 1985); - Thị
trấn giữa rừng Sác (bút ký 1985); - Bầu trời thềm lục địa (bút
ký 1986); - Câu chuyện một chiều thứ bảy (truyện ngắn
1987); - Một thời dang dở (tiểu thuyết 1988, 1992); -
Thời áo trắng (tiểu thuyết 1995, 2002); - Tuyển tập truyện ngắn (2002); -
Ai vượt Cửu Long Giang (bút ký 2003); - Ai tri âm đó… (phê
bình, tiểu luận, 2003), - Văn học TP.HCM 1975 – 2005 (nghiên cứu,
khảo luận…, 2008), - Chuông chùa (truyện ngắn 2011); - Cánh
hạc & Tiếng chuông (phê bình, tiểu luận, 2014)… Đồng thời, cũng
luôn luôn nghe vang lên trên làn sóng các phương tiện đại chúng những tác phẩm
thanh nhạc và khí nhạc của Nguyễn Tài Tuệ (trên 30 tác phẩm) thắm đượm chất trữ
tình và nhân văn được phát triển từ âm nhạc dân gian Việt Nam đi rất xa…
có thể thấy rất rõ ý thức, trách nhiệm sâu sắc của họ với đất nước, với
dân tộc. Tôi vẫn nhớ, Trần Thanh Giao đã nhấn mạnh với Nguyễn Tài Tuệ trong buổi
tối đáng ghi nhớ ấy: Trong các tác phẩm thanh nhạc của anh, tôi thấy những bán
cung, nửa cung lẽ ra là rất Tây, vậy mà anh đưa vào cứ ngọt và vô cùng
thuần Việt trongMùa xuân gọi bạn, Suối mường Hum còn chảy mãi, Xa khơi, Mơ
quê, trong Tiếng hát giữa rừng Pác Bó v.v.. Có cả câuxuống
xề của cải lương trong Xôn xao bến nước nữa! Rồi những
bản Rondo sonata, concerto, operette, v.v.. của ông đậm đà chất nhạc Việt. Tóm
lại, nếu nói cách tân về hình thức thì cha ông ta cũng đã làm nhiều, và làm
thành công… Nếu ta đừng sùng ngoại, đừng hám của lạ, tự hào về cha ông mình thì
ta cũng có thể nêu ra “luận thuyết”, đóng góp vào những thuyết chung, có ích
cho sự phát triển nhận thức của con người về bản chất của văn học nghệ thuật và
cuộc sống.
Trần Thanh Giao, Nguyễn Tài Tuệ và tôi, cả ba cùng yêu
thích Chức cẩm hồi văn của Tô Huệ, một tác phẩm thơ “siêu hình
thức” cách nay đã hơn 2000 năm. Rồi tiếp sau đó, là những kiệt tác nhân loại
như Iliade, Odyssée, cùng với các tác phẩm của những tác gia
hàng đầu của nhân loại như Shakespeare, Cervantes, Dante, Goethe, Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du… Để qua việc đọc những kiệt tác đó mà bồi đắp chiều sâu nội lực cho
mình trong sáng tạo và tiếp nhận những giá trị mới của văn học nghệ thuật.
5. Cái tin ông ra đi vào ngày 10 Tháng Chạp khiến tôi bị
bất ngờ. Tôi không thể tin nổi một cái cây cổ thụ đã đổ xuống, vận vào lời Thôi
Hiệu, Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản (Hạc vàng một đi không
trở lại), bài thơ sinh thời Trần Thanh Giao hằng yêu thích và lấy đó làm dấu
tích của cuốn tiểu luận phê bình cuối cùng, dồn tụ nhiều tâm huyết. Một khoảng
trống của văn đàn không bù đắp được. Tuy biết từ nay tôi sẽ không bao giờ nhận
được những dòng cảm xúc tươi rói của ông qua email nữa. Tôi vẫn thấy nụ cười trẻ
trung của ông. Sự nhiệt tâm xốc vác. Ông vẫn như còn đó, với ba lô, laptop và
máy ảnh, sẵn sàng cho một chuyến đi mới.
Hà Nội, những ngày
áp Tết Bính Thân 2016
BÙI TUYẾT MAI
Theo NVTPHCM