Nhà văn Lý Văn Sâm
Nằm cách Tp. Hồ
Chí Minh gần 100km, “Mã Đà sơn
cước” nay thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai là vùng rừng nguyên sinh bạt ngàn
rộng hơn 100.000 ha, trong đó có 32.000 ha mặt nước hồ Trị An. Vào thu, cây rừng
bắt đầu thay lá. Một không gian đẹp, quyến rũ và thanh sạch.
Đây là nơi đầy
huyền thoại, có nhiều di tích văn hoá, lịch sử gắn liền với Chiến khu Đ. Với từng
cánh rừng hoang sơ, từng ngôi làng hẻo lánh và cả thác nước thủy điện Trị An, Lý
Văn Sâm cùng với các vị tướng yêu
văn hoá như Nguyễn Bình, Trần Văn Trà, Huỳnh Văn Nghệ, Bùi Cát Vũ… cũng
là những huyền thoại đáng tự hào.
Đặc biệt, Mã Đà từ lâu là nguồn cảm hứng bất tận cho nhà
văn Lý Văn Sâm. Ông không chỉ là người
tạc dựng nên nhân vật bất tử Kòn Trô với truyện ngắn đường rừng cùng tên
từ nguyên mẫu chính bản thân mình, mà tôi có cảm giác từ trong lập trình số phận
của tạo hoá ông cũng đích thực là Kòn Trô, tức “con Trời”, giang hồ lưu lạc xuống trần thế hành hiệp, để rồi
khi sứ mệnh hoàn thành lại biến mất trong mây bay gió lượn, chẳng quan tâm mình
lưu lại gì với đời thường đua
tranh hỗn tạp.
Một hành trạng phong phú và kỳ lạ
Cuộc đời Lý Văn Sâm là một hành trạng kỳ lạ trong một
tính cách kỳ lạ, với một sự nghiệp cũng hết sức lạ kỳ của một con người tài
hoa, một tinh thần đại nghĩa sinh từ hào khí núi sông Đồng Nai - một không gian
văn hoá mang đặc thù riêng. Và nhà văn Lý Văn Sâm chính là một trong những “sản
phẩm” tiêu biểu kết tinh từ văn hoá Đồng Nai lẫn miền Đông Nam Bộ. Đồng thời,
Lý Văn Sâm cũng là nhân vật hội đủ mọi tính cách điển hình và độc đáo của người
phương Nam, mà càng tìm hiểu chúng ta càng phát hiện nhiều điều bất ngờ thú vị.
Từ lòng yêu nước với tinh thần Lục Vân Tiên trước bóng đêm ngoại xâm đã đưa Lý
Văn Sâm trở thành một người cộng sản tranh đấu hàng đầu trên mặt trận văn hoá,
nhưng bản tính sống độc lập, tự do, phóng khoáng, ẩn dật, bất cần danh lợi vốn
hình thành từ lúc còn là cậu bé rừng xanh “thâm u và cao cả” vẫn chi phối suốt
cuộc đời sôi động, phong phú, luôn xê dịch của ông.
Đối với văn chương, Lý Văn Sâm là cây bút đa năng, viết
nhiều thể loại: truyện ngắn, truyện vừa, thơ, bút ký, tạp văn, kịch, tuồng cải
lương. Cảm hứng từ quê hương văn học ở núi rừng Biên Hoà - Đồng Nai, nhưng sự
nghiệp văn chương của Lý Văn Sâm lại chủ yếu gắn liền với thành phố Sài Gòn nơi
ông dấn thân tranh đấu bằng cây bút và khẳng định được tài năng, vị thế của
mình trên văn đàn.
Ngược dòng lịch sử văn học trước năm 1945, nếu như Lan
Khai và Thế Lữ là hai cây bút “chủ soái" về thể loại truyện đường rừng ở
miền Bắc, thì ở miền Nam chỉ có Lý Văn Sâm giữ vị trí độc tôn với những truyện
ngắn như: Cây nhị sông Phố, Kòn Trô, Thần Ngư động… Sau Cách mạng
tháng Tám, tại trung tâm Sài Gòn, với tư cách chiến sĩ bí mật tranh đấu công
khai trên báo chí, nhà văn Lý Văn Sâm đã tiếp tục viết và lách, phát huy thế mạnh
chủ yếu là chuyện đường rừng để gián tiếp thể hiện tình yêu quê hương, đất nước
và chống lại các thế lực cường quyền, ngoại xâm. Đây là chặng đường sáng tác mạnh
mẽ, sung sức nhất của ông với 35 truyện ngắn, 16 truyện vừa, 11 vở kịch. Trong
đó, về truyện ngắn tiêu biểu như: Thâm u và cao cả, Xác Mu Mi trên núi
đá, Răng Sa Mát, Mũi Tổ, Ngăn rạch bắt sấu, Rồng bay trên núi Gia Nhang, Sương
gió biên thuỳ, Nắng bên kia làng; truyện vừa có: Chiếc vòng ngọc thạch,
Sau dãy Trường Sơn, Nợ nước thù nhà, Đất khách, Nga và Thuần, Vợ tôi người dân
tộc thiểu số,…
Không chỉ chiếm lĩnh trường văn trận bút Sài Gòn từ năm
1947 đến 1954, mà sau đó nhà văn, nhà báo Lý Văn Sâm còn tiếp tục dùng ngòi bút
tài hoa, dũng cảm của mình trong cuộc đối đầu không cân sức và trực diện với
chính quyền bạo lực Việt Nam Cộng hòa do Tổng thống Ngô Đình Diệm đứng đầu. Đỉnh
điểm là truyện ngắn Chuông rung trên tháp đổ với nhiều hình tượng
ẩn ý của ông đăng trên đặc san xuân Dân Tộc vào Tết Bính Thân
1956 gây chấn động dư luận.
Cũng vì sức lan tỏa của truyện ngắn Chuông rung
trên tháp đổ mà nhà văn Lý Văn Sâm bị kẻ thù bắt tống giam và cùng
hàng trăm đồng chí của mình tổ chức vượt ngục nhà lao Tân Hiệp ở Biên Hoà. Lý
Văn Sâm may mắn thoát ra chiến khu, trong khi người bạn thân thiết Dương Tử
Giang cũng là nhà văn, nhà báo cùng nhiều người khác đã ngã xuống trước làn đạn
truy kích của đối phương. Từ đây, ông trở thành một trong những yếu nhân xây dựng
lực lượng văn nghệ giải phóng, giữ nhiều trọng trách, dọc ngang khắp chiến khu
miền Đông và cả Nam Bộ cho tới ngày đất nước hoà bình, thống nhất.
Rừng Mã Đà
“Con Trời” u uẩn giữa rừng xanh
Quê nội nhà văn Lý Văn Sâm ở làng Bình Long, quận Tân
Uyên, tỉnh Biên Hoà, nay thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Còn quê ngoại ông
ở làng Tân Nhuận, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hoà, nay thuộc thị trấn Uyên Hưng,
huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Lý Văn Sâm chào đời ở quê ngoại làng Tân Nhuận
và gắn bó với nó gần suốt thời ấu thơ, nên về sau trong nhiều trang viết của
mình ông hay nói tới ngôi làng nhỏ này nằm bên hữu ngạn dòng sông Bé - một phụ
lưu của sông Đồng Nai.
Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên kỳ lạ khi chỉ một khúc
sông Đồng Nai mà hai bên bờ của nó với những làng mạc vốn xa xôi heo hút đều
thuộc quận Tân Uyên xưa lại sinh ra bốn nhà văn danh vang thiên hạ: Huỳnh Văn
Nghệ, Bình Nguyên Lộc, Lý Văn Sâm và Hoàng Văn Bổn. Trong đó, Lý Văn Sâm là người
có mối quan hệ đặc biệt và khác biệt với từng người trong cả ba nhà văn đồng
hương. Ngoài Bình Nguyên Lộc thì Lý Văn Sâm cùng hai nhà văn còn lại đã được
trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
Lý Văn Sâm đã góp phần làm rạng danh văn hoá Đồng Nai và
chính hào khí sông núi quê hương và ký ức tuổi thơ đã hun đúc nên con người,
tính cách và sự nghiệp của tác giả Kòn Trô. Trò chuyện với chúng
tôi, ông cho hay: “Đến năm bảy tuổi, tôi mới có dịp ra thị trấn Tân Uyên,
nên từ nhỏ tôi đã có tâm hồn ẩn dật. Tôi cứ ngồi bó gối ở trong nhà bà ngoại,
thấy xe hơi chạy, ao ước có lúc mình được ngồi trên chiếc xe đó. Ông già tôi
làm kiểm lâm và lãnh tiền xâu trả cho công nhân đốn cây. Từ nhỏ, tôi ở với bà
ngoại, không có điều kiện trò chuyện với ai. Tôi trở thành cậu bé hết sức cô
đơn. Một lần nhà bị cháy, gia đình ngoại tôi chạy từ rừng về, tưởng tôi bị chết
cháy trong đó rồi. May có cô câm giúp việc tên là Quơn la ú ớ rồi nhảy vô cứu
tôi. Nếu không có cô ấy thì bây giờ tôi chẳng còn. Lúc bảy tuổi, tôi đã biết tiếng
Tây do cha tôi dạy. Hoàn cảnh sống ở chốn rừng núi âm u làm tôi hay bất mãn, chống
sự bất công xã hội và thích ẩn dật”.
Vì mẹ phải tảo tần buôn bán quanh năm từ quê ra tận tỉnh
thành Biên Hoà, Sài Gòn nên bà ngoại trở thành người mẹ thứ hai trong suốt bảy
tuổi đầu của Lý Văn Sâm trước khi đến trường. Phong cảnh núi rừng mênh mông
thâm u đầy bí ẩn đã ăn sâu vào ký ức tuổi thơ ông như sau này nhà văn tự thuật
lại trong truyện ngắn tâm đắc Nắng bên kia làng: “Tôi lớn lên giữa
một vùng thiên nhiên phóng khoáng, bên những người thân yêu mộc mạc, xa ánh
sáng văn minh, xa tiếng nói của thị thành. Và như thế trọn bảy năm. Tâm hồn tôi
là tâm hồn của những đứa trẻ nhút nhát run sợ trước cảnh bão tố đè rạp rừng
già, thổi tốc mái nhà tranh khiến phần đông người trong xóm nheo nhóc như lũ
chim mất ổ”.
Sinh ra trong gia đình tương đối khá giả ở vùng quê nghèo
heo hút chốn núi rừng, Lý Văn Sâm đã được cha mẹ nuôi dạy ăn học với mong ước
thành tài. Từ bậc tiểu học đến trung học ông trải qua các trường ở Biên Hoà,
Sài Gòn rồi ngược ra tận xứ Huế. Trong bài Tôi viết văn đăng
trên báo Sống Mới số xuân năm 1950 ở Sài Gòn, nhà văn Lý Văn Sâm có tự thuật:
“Tôi vốn có khiếu văn chương từ năm tôi ngồi lớp nhất
trường Biên Hoà. Tôi giỏi Việt văn là lẽ cố nhiên, nhưng tôi không có mộng trở
nên văn sĩ sau này. Hồi ấy, tôi rất thích quyển Lời hoa của Trí Đức
văn đoàn Đông Hồ tiên sinh ở Hà Tiên xuất bản. Tôi thích quyển ấy vì những ngọn
gió quê, của những đồng lúa Tân Ba Biên Hoà thổi vào lòng tôi một cảm giác thơm
ngọt ngọt và khởi cho tôi hồn văn của tôi một hứng thú mới. Lạ có một điều khi
tôi lên học năm thứ nhất trường Lê Bá Cang, tôi không viết văn nữa. Có lẽ vì
ông giáo Việt văn Trần Văn Hoàng (không phải là ông Nam Vân) hồi ấy đã khiến
cho giờ học chúng tôi thành ra buồn tẻ nên chúng tôi chán là phải”.
Sau đó, Lý Văn Sâm dự định ra Hà Nội học nhưng số phận
đưa ông dừng chân ở Huế học trường Hồ Đắc Hàm. Cảnh sắc thơ mộng sông Hương núi
Ngự đã khơi hứng trở lại tình yêu văn chương trong tâm hồn lãng mạn của chàng
trai núi rừng miền Đông đất đỏ. Rời xứ Huế trở về quê nhà Lý Văn Sâm được cha
giao cai quản lò than ở Trị An. Thiếu vắng bạn bè, xung quanh chỉ cỏ cây, nước
non, ghềnh thác. Buồn, cô đơn, cây bút và trang giấy trắng tình cờ trở thành
người bạn tâm tình. Chàng trai của chốn núi rừng lao vào viết và viết để tự giải
toả nỗi lòng. Viết bằng bản năng. Viết bằng mắt thấy tai nghe giữa thiên nhiên
“thâm u và cao cả”. Viết bằng trí tưởng tượng thăng hoa “liên tài” với sự trải
nghiệm của ký ức u huyền, bí ẩn… để rồi những trang văn đường rừng ly kỳ lần lượt
xuất hiện quyến rũ bao thế hệ bạn đọc.
Cùng với Vũ Anh Khanh, Lý Văn Sâm được các nhà nghiên cứu
văn học đánh giá là một trong hai cây bút xuất sắc nhất ở miền Nam giai đoạn
1945-1954. Về sau ông viết ít đi, nhưng với vai trò là một trong những thủ lĩnh
của văn nghệ kháng chiến miền Nam cùng với Trần Hữu Trang, Lưu Hữu Phước, Nguyễn
Văn Bổng, Giang Nam, Hoài Vũ, Anh Đức… ông đã có những đóng góp quý giá khác vẫn
bằng tâm thế và nghĩa khí Kòn Trô năm xưa của “Mã Đà sơn cước”
huyền thoại.
PHAN HOÀNG
Theo Văn Nghệ số 39/2019
TIN VĂN KHÁC: