Thi sĩ Nguyễn Khuyến (1835-1909).
Là nhà nho
thông minh, uyên bác, tuy đỗ Tam nguyên nhưng sống vào thời bất như ý
nên Nguyễn Khuyến vướng vào những
mâu thuẫn không thể giải quyết. Pháp xâm lược, triều đình nhà Nguyễn
phân hóa sâu sắc chủ chiến và chủ hòa, ông chưa biết đứng về phía nào.
Vẫn nặng tư tưởng
trung quân nhưng khí tiết nho sĩ không cho phép làm quan mà nhìn giặc cướp nước, ông đành chọn cách "Đắp
tai, ngoảnh mặt làm ngơ". Nhưng thời thế nhiễu nhương vẫn đầy "phường
xỏ lá", đầy sự xấu xa nên ông làm thơ để mỉa mai giễu đời. Thế nên tiếng
cười ấy phải kín đáo, mập mờ, ám chỉ, không trực diện.
Thế giới nghệ
thuật thơ Nguyễn Khuyến đầy sự oi nồng, ngột ngạt. Tên nhiều bài thơ cũng cho
thấy điều ấy: "Mùa thu trời nóng", "Khổ vì nực",… Có
nhiều bài viết về cảnh ngày hè bức bối: "Mùa hè năm Nhâm Dần",
"Mưa lạnh ngày hè", "Mưa ngày hè", "Ngày hè ngẫu hứng"… Rất nhiều những câu thơ:
"Hôm qua nắng dữ, còn bực vì nóng" hay "Hè này nóng bức rất
khó chịu" …
Nhưng tiêu biểu
nhất là bài thơ nôm "Than mùa hè": "Tháng tư đầu mùa hạ/ Tiết trời
thực oi ả/ Tiếng dế kêu thiết tha/ Đàn muỗi bay tơi tả/ Nỗi ấy ngỏ cùng ai/ Cảnh
này buồn cả dạ/ Biếng nhắp năm canh chày/ Gà đã sớm giục giã". Sự
oi ả ngày hè chỉ là nghĩa bóng còn nghĩa thực, theo lối ám chỉ là thời tiết chính
trị hết sức ngột ngạt, vua bất lực, quan lại tham nhũng bất tài, xã hội nhố
nhăng, kẻ thù đã hiện hữu...
Thế nên nhà thơ hẳn nhiên là cô đơn. Thường hay xuất hiện hình tượng "độc hạc", con hạc cô đơn ngơ ngác
trong thơ ông: "Ban đêm một con hạc độc kêu vang, hình như không biết bay về đâu" (Ngày xuân);
"Một con hạc lẻ bay dọc ngang chưa biết đâu là nhà" (Vườn rau). Một
đám mây cô đơn: "Đến tuổi già một hình một bóng như đám mây cô đơn" (Gửi cho bạn). Một cánh
chim đơn: "Xuân tàn mà chẳng biết/ Một cánh chim bay vượt qua núi phía
Tây" (Tức sự)… Cảnh vật cũng đơn chiếc: "Đìu hiu cảnh quạnh"
(Núi Lão huyện ta); "mảnh cây thưa thớt" (Vịnh núi An Lão); "một lá về đâu…", những
ngôi nhà "bé con con" (Vịnh núi An Lão); một con thuyền ngơ ngác (Nhớ cảnh chùa Đọi); một "chom
chỏm trên sông đá một hòn" (Chơi núi Non Nước); một cần trúc, một bóng trăng, mấy chùm hoa trước giậu
trong "Thu vịnh"; "một chiếc thuyền câu bé trẻ teo" (Thu điếu)…
Trong thơ chữ Hán cũng xuất hiện nhiều tiểu viên, tiểu cảnh với hoa mai, hoa
cúc hay nở trái mùa, cây quất bình dị.
Phong cách Nguyễn Khuyến hợp với những gì xa vắng, cô
đơn, buồn, thâm trầm, kín đáo, sâu sắc mà tinh tế.
Cáo quan là một sự tránh đời, lánh đời, nhưng chỉ lánh được
thân xác còn không thể lánh tình cảm, vì thơ luôn là tiếng nói của tâm trạng. Đọc thơ ông ta vẫn thấy một sự khát khao
thay đổi. Ở bài "Than mùa hè" thì câu kết là một sự thay đổi
tiết trời, tiếng gà giục giã (Gà đã sớm giục giã) hay một cái gì đó khó nói ra
"giục giã". Nhà thơ buồn
chán, bất lực nhưng luôn thường trực một khát khao thay đổi, dù mơ hồ:
"Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa/ Thử xem trời mãi thế này ư?". Thì ra cái động lực sống
của thi nhân là mong muốn một sự khát khao ấy: "Trong bốn mùa gặp lúc khí
âm thịnh/ Thì trăm thứ đều phải xếp xó/ Khi nào có mặt trời đỏ hiện ra/ Sẽ thấy
gọi đến nhà ngươi" (An ủi cái
quạt đỏ). Một tiếng gà báo sáng, một tiếng sấm, một tiếng pháo, một hình
ảnh mặt trời, một làn gió xuân… trong thơ Nguyễn Khuyến thường mang tính dự báo về một sự sắp sửa đổi thay, đúng hơn
là một khát khao đổi thay.
Đau đời mà
không giúp được đời. Yêu vua mà không giúp gì được cho vua. Thậm chí vua
lúc này cũng không cụ thể là ai, là người như thế nào, yêu nước hay không yêu nước. Yêu dân mà không làm gì
được cho dân đỡ đói, đỡ khổ, đỡ lầm than. Là người giàu lòng tự trọng, tất nhiên Nguyễn Khuyến thấy thẹn, thấy
ngán, thấy chán, thấy bực, thấy nhục, thấy hận:
"Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già" (Ngày xuân dặn
các con);
"Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào" (Thu vịnh)
"Chăn xưa nhường thẹn nỗi riêng chung" (Mưa lạnh ngày hè)
"Nghĩ
càng thêm ngán cho đời" (Lấy Tây)
"Nghĩ đời
mà lại ngán cho đời" (Ngẫu hứng);
"Ngán kẻ
phương trời chẳng đứt dây" (Nghe hát đêm khuya)
"Còn
một nỗi này thêm chán ngắt" (Than già);
"Nghĩ lại bực cho dòng nước chảy" (Chơi núi Long Đội);
"Vui thế
bao nhiêu nhục bấy nhiêu" (Hội Tây);
"Tức giận
lắm chỉ muốn say ngàn ngày" (Gửi bạn đồng khoa họ Dương ở xã Khắc
Niệm).
"Ai chẳng biết chán đời là phải" (Khóc Dương Khuê)…
Là một nhà nho
chân chính tâm thức gắn liền với "đạo", luôn ý thức về sự suy
tôn, bảo vệ "đạo", thế mà phải thốt lên đau đớn: "Ngô đạo chí
kim tiêu tác thậm" (Đạo của chúng ta nay đã rời rạc lắm). Nhưng làm sao có thể cứu được "đạo", đành
mặc chân mình lảo đảo bước vào cõi say: "Chỉ có lão đeo bầu trong làng
say này thực là tiên" (Rượu).
Nhưng cũng có
lúc phải tỉnh, lúc ấy muốn được vô tư như hình ông lão vẽ trong cái quạt:
"Ngồi nhìn lại thích cái ông già vẽ trong quạt/ Chỉ tựa cây nâng chén,
không tính bao nhiêu mùa xuân" (Bài muộn). Có lúc muốn được câm lặng như
ông lão đá.
Thậm chí có lúc cảm thấy tương giao đến độ không có ranh
giới thật/giả, không biết mình là ông lão đá hay ông lão đá là mình: "Lão
đá ngồi suốt ngày/ Lão đá im không nói/ Ta thích ngâm và viết/ Thân mật không
ngờ nhau/ Bạn thần giao có nhân quả/ Cùng đi lại trong cõi hóa/ Biết đâu ngươi
không phải ta" (Ông lão đá)…
Với bản tính "hiếu ngâm tả" (thích ngâm và viết)
nên Nguyễn Khuyến lánh đời vào rượu
và thơ là phải lẽ và hợp lẽ. Lánh đời mà gửi vào rượu vào thơ: "Tức giận lắm
chỉ muốn say cả ngàn ngày/ Thơ ngâm tràn, cần gì phải vạn người truyền tụng"...
Nguyễn Khuyến
cố ý nâng cái say của mình lên một tầm cao mỹ học - mỹ học cái say. Như có chỗ ông nói không uống rượu thì
hoa cúc sẽ chê cười: "Bầu rượu
thường để không, bị hoa cúc vàng cười giễu" (Tự thuật).
Ông mượn rượu
như một phương tiện để bước vào địa hạt cái say mà lánh đời, đợi đến ngày
"thái bình": "Uống trăm chén rượu để quên mọi sự"
(Vài lời than), "Ta say tít lại ngâm vang" (Ngày hè), "Ước gì được thứ rượu Trung Sơn mà uống/
Rồi đánh một giấc say dài cho đến ngày thái bình" (Nói chuyện cũ). "Rượu Trung Sơn" có từ tích Lưu Huyền
Thạch mua rượu "Thiên nhật" ở Trung Sơn, mỗi lần uống say nghìn
ngày.
Nhà thơ rất
hay nói đến chuyện uống rượu, say rượu. Có lúc nói uống ít: "Rượu tiếng rằng
hay, hay chả mấy/ Độ năm ba chén đã say nhè" (Thu ẩm); có lúc nói uống
đến mấy chục chén mà vẫn thấy tỉnh: "Cao hứng rót rượu uống tràn/ Mỗi lần uống hàng mấy chục
chén" (Ngày hè ngẫu hứng); có khi lại thấy nói "Cho nên say, say khướt
cả ngày/ Say mà chẳng biết rằng say ngã đùng", thế mà vẫn chuốc rượu "Xin ngươi gắng cạn chén
này" (Uống rượu ở vườn Bùi).
Có khi lại chỉ
chăm chăm đến với chén rượu chứ không vì lẽ gì khác: "Bây giờ đến bậc
ăn dưng nhỉ/ Có rượu thời ông chống gậy ra" (Lên lão). Có thể đây chỉ là sự
tự giễu nhân cách gàn dở của mình khi tuổi cao không thấy mình có ích gì. Như vậy không phải là thích rượu, hay rượu,
đó chỉ là cái cớ để neo gửi tấc lòng.
Trốn đời, lánh đời nhưng không quên được đời, thậm chí
càng đau đời, ông đành gửi vào thơ
những nỗi niềm trăn trở. Như lẽ tự nhiên đã hình thành một phong cách chỉ
có ở ông: phong cách ám chỉ, mượn
cái này để nói cái khác.
Chúng tôi xin
giới thiệu bài thơ chữ Hán "Quặc ngư" (Chộp cá) nói về chuyện uống rượu
mang rõ đặc trưng phong cách Nguyễn Khuyến. Bài thơ mang dáng dấp một vở kịch nhỏ, có giới thiệu: ta
thích uống rượu nhưng nhiều khi bực mình vì không có nhắm; có hoàn cảnh
không thời gian: một hôm kiếm được con cá mực xào nấu xong chuẩn bị nhắm rượu; có tình huống: con mèo nhà ai
lẻn vào cướp cá; có cao trào: mèo nhảy
lên xà nhà, ngạo nghễ, như thách thức ta; có cởi nút: "Đành nâng chén uống
say/ Rõ ra là ta thua chúng bay".
Đặt tác phẩm trong trường ý nghĩa văn hoá truyền thống (bức
tranh Đám cưới chuột), trong hệ thống phong cách ám chỉ của nhà thơ, có thể hiểu: con mèo thực dân Pháp trắng
trợn vào ăn cướp nước ta, lại còn tỏ thái độ ngạo nghễ "khai
hoá". Thế mà dân (ta) lại đành chịu thua sao?!
Nói là "uống say" nhưng kỳ thực, rất tỉnh!
Nguyễn Khuyến
từng làm thơ giễu bạn mình: "khéo ngơ ngơ ngác ngác ngỡ là ngây", thì đó cũng chính là Nguyễn Khuyến!
NGUYỄN THANH TÚ
Theo VNCA
TIN VĂN
KHÁC: