Nếu chỉ quan sát và phê phán tình trạng đào tạo tiến sĩ một
cách tràn lan, vô tội vạ, kiểu “mỗi ngày một tiến sĩ” là sự xuống cấp, tệ lậu của
bậc giáo dục sau đại học e rằng chưa thực sự thấu đáo vấn đề. Và như thế, căn
nguyên, cốt lõi, bản chất của hiện tượng này vẫn chưa được nhìn nhận một cách hợp
lí. Đồng ý rằng, việc đào tạo tiến sĩ như ở ta hiện nay đang làm cho danh vị tiến
sĩ trở nên rẻ rúng, tầm thường hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, cũng phải thấy được
vì sao lại có hiện tượng đó. Cái nhìn từ gốc, từ căn tính dân tộc, từ nền tảng
lịch sử xã hội, văn hoá Việt Nam giúp chúng ta lí giải được nhiều hiện trạng xã
hội, trong đó có hiện tượng “ra ngõ gặp tiến sĩ” như hiện nay.
Từ xưa, trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa, hoàng giáp,
ông nghè, ông cống, ông cử, ông tú, ông đồ… luôn là những bậc đức cao vọng trọng
trong xã hội. Có danh ắt có vị, có vị ắt có lợi (“phong kiến” vốn mang nghĩa là
phong tước - danh vị và kiến địa - đất đai, quyền lợi). Bởi thế, dân gian vẫn
truyền nhau câu nói: Tốt danh hơn lành áo. Thế rồi, có danh, nghĩa
là có được vị trí. Trong xã hội Việt Nam, vị trí rất quan trọng: Một miếng
giữa làng bằng một sàng xó bếp. Bởi vậy, ai ai cũng đua chen để có được cái
danh, để kiếm được vị trí giữa làng, đình trung, tiên chỉ,… để rồi có được cái
lợi từ danh, từ vị. Người ta bằng mọi giá để có được danh. Người thì học hành
thi cử đàng hoàng, sôi kinh nấu sử mong có ngày “vinh quy bái tổ”, nhưng cũng
có người bằng những con đường khác mà có được danh, vị. Thế nên, trong xã hội
xuất hiện tình trạng mua danh, bán tước. Âu cũng là lẽ thường của một xã hội vốn
phát triển trên nền tảng trọng danh - vốn là tâm thức của cộng đồng trong điều
kiện sản xuất nông nghiệp lúa nước, nghèo túng và luôn bất an, lo âu.
Đặc tính trọng danh của xã hội Việt Nam (xưa) còn được tiếp
sức bởi những thiết chế xã hội khác mà tiêu biểu nhất là hình thức “tập ấm” (những
điều kiện cho phép con cháu tiếp tục được hưởng lợi từ danh vị của cha ông) khiến
cho việc phấn đấu có được cái danh càng trở nên quan trọng đối với người Việt
Nam. Có danh, nhất là danh vị từ việc học, biến một người trở thành tầng lớp
trên của xã hội trong cơ cấu: sĩ - nông - công - thương (nhất sĩ nhì nông). Sĩ
trong cơ cấu này là đẳng cấp trên, hưởng đặc quyền và là tầng lớp chăn dắt,
giáo hoá đại chúng. Tâm lí này dẫn đến tình trạng thừa thầy thiếu thợ cũng đang
hiện diện trong xã hội hiện nay.
Nhưng tại sao xã hội Việt Nam lại trọng danh đến như thế?
Người có danh, tốt danh được xã hội tôn kính, ngưỡng vọng, đi cùng với quyền lợi
và các lợi ích hữu hình, vô hình khác. Người dân Việt Nam vốn sống trong không
gian kinh tế, văn hoá lúa nước, phụ thuộc vào thiên nhiên, bị động hoàn toàn
trước các điều kiện ngoại cảnh. Tâm lí bất an Trông trời, trông đất,
trông mây/ Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm/ Trông cho chân cứng đá
mềm/ Trời êm biển lặng mới yên tấm lòng luôn khiến cho cư dân nông
nghiệp thấy cần phải có một sự đảm bảo, một sự che chở nào đó từ bên ngoài, bên
trên (sùng kính tâm linh, siêu nhiên). Danh vị, chức tước và đẳng cấp cũng
chính là một giá trị mà cư dân nông nghiệp luôn ngóng vọng nhằm cứu vớt, giải
toả trạng thái lo âu vì cuộc sống bấp bênh, bất trắc, thấp cổ bé họng, con sâu
cái kiến của mình. Từ đó, lập công, lập danh trở thành nhiệm vụ hàng đầu của
con người thời phong kiến. Và, trong niềm khao khát ấy, cái tiêu cực có cơ hội
trổ rễ, đâm cành - tệ mua quan, bán tước.
Trong không gian đương đại, tình trạng lạm phát tiến sĩ
có căn nguyên từ tâm tính dân tộc đã nói ở trên. Nghĩa là xã hội vẫn truyền thừa
tâm lí trọng danh từ xa xưa. Điều đó cho thấy tính chất nông nghiệp của xã hội
Việt Nam rất nặng nề, ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình hội nhập của đất nước.
Có nhiều người cho rằng, thực tế, đô thị, thành phố ở Việt Nam cũng chỉ là một
cái làng (siêu làng) mà thôi. Trong cơ cấu xã hội nặng căn tính nông nghiệp,
làng xã ấy, cái danh tiến sĩ trở thành công cụ, phương tiện để người ta có được
vị trí, chức tước và quyền lợi. Cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm dựa trên bằng cấp
(bên cạnh những ưu điểm) có những nhược điểm như không chú ý đến năng lực, hiệu
quả công việc. Người ta đua nhau đi học lấy bằng tiến sĩ, các cơ sở giáo dục đua
nhau mở các mã ngành tiến sĩ, thạc sĩ. Học, thi không được thì mua, nhờ người học
hộ, thi thay, làm luận văn, luận án hộ. Trên mạng còn có cả những địa chỉ công
khai việc viết luận văn, luận án, đồ án thuê,… Những đề tài được thực hiện, bảo
vệ xong thì xếp đó, thậm chí có những đề tài rất ngô nghê, buồn cười, không xứng
tầm luận án (chỉ ngang một bài báo),… như báo chí đang chỉ ra. Dẫu như thế, người
ta vẫn học, vẫn đào tạo, vẫn bảo vệ và bảo vệ thành công. Các tiến sĩ vẫn ra
lò, vẫn đảm nhiệm nhiệm vụ và tiếp tục được cất nhắc vào các vị trí quan trọng,
quan trọng hơn,… Tất cả những diễn biến ấy không gì khác là sự hiện diện của
tâm lí trọng danh gắn với tính chất “phong tước kiến địa” của xã hội Việt Nam từ
xưa.
Có lần, trong bài phỏng vấn của một báo nọ, phóng viên hỏi
tôi: Anh nghĩ sao về câu nói cửa miệng “ra ngõ gặp tiến sĩ” hiện nay? Tôi trả lời
rằng, tiến sĩ kia cũng có năm bảy đường, chiếc áo không làm nên thầy tu, đừng
quá quan trọng việc bằng cấp, danh vị, tiến sĩ chỉ là một bậc học trong hệ thống
giáo dục quốc dân, hãy xem họ làm việc thế nào. Một người quen của tôi, hiện
đang làm giám đốc một tổ chức phi chính phủ, nói rằng, chẳng dại gì đi nhận một
vị tiến sĩ không làm được việc - dẫu có thể mình sẽ được lót tay kha khá, để rồi
công ty thất thu không biết bao nhiêu từ việc người này không làm được việc,
không đem lại hiệu quả, thậm chí làm mất uy tín của công ty (tài sản hữu hình
và vô hình). Cái mất đó nhiều hơn rất nhiều so với cái được riêng tư, lén lút
kia. Xã hội Việt Nam đang trên đường hội nhập. Chơi với thế giới phải biết luật
(trong khi chúng ta vốn nặng về lệ và tục) và có đủ trình độ, năng lực. Bằng cấp
thực sự rất quan trọng. Nhưng quan trọng hơn vẫn là khả năng thích ứng, đáp ứng
và hiệu quả công việc mà một người lao động có thể thực hiện được. Cơ cấu lao động,
ngành nghề, vị trí việc làm, các lợi ích gắn với người lao động thiết nghĩ cần
phải dựa trên nền tảng năng lực của cá nhân trong tương quan với nhu cầu của xã
hội, thời đại. Có như thế, cái danh mới (phải) gắn với cái thực, thực làm nên
danh, và vị trí, quyền lợi phải xứng với danh và thực của người sở hữu danh vị.
NGUYỄN THANH TÂM
Theo VNQĐ