Vào chiến trường
miền Nam từ tháng 4 năm 1971, đã từng “nằm vùng” rất lâu ở cực Nam Trung
Bộ, nơi chiến trường nổi tiếng là
“đói và chết chóc”, hồi đó gọi là T6 mà anh em chúng tôi vẫn đùa là “ 6 tấm”,
nó là cái gì thì ai cũng biết rồi. Trần Vũ Mai đã tham gia nhiều chiến dịch,
trải qua nhiều trận đánh cùng với bộ đội và du kích, đã chất chứa trong lòng
mình, trong ký ức mình bao nhiêu là số phận những con người trong chiến tranh mà anh mong sẽ có ngày mình
viết lại được. Không để làm gì, chỉ để trả ơn trả nghĩa với đồng đội, đồng bào
đã bảo bọc mình những tháng năm gian khổ và cay đắng.
Nhà thơ Trần Vũ Mai
Hòa bình, là dịp may cho những người có tài năng văn học đã sống sót qua chiến
tranh như Trần Vũ Mai. Anh háo hức,
ngược xuôi, đi và viết, đi và nghĩ, đi và yêu. Nhưng vốn là một chàng trai vừa
bản lĩnh, mạnh mẽ nhưng lại vừa đầy những thương cảm, yếu đuối, Trần Vũ Mai đã
chọn Trần Mai Ninh và Hemingway làm thần tượng - hai nhà thơ nhà văn cũng đầy những phức cảm giống như anh.
Là một người từng
trải nhưng có tâm hồn ngây thơ và thánh thiện của một đứa trẻ, Trần Vũ Mai đã
tin yêu là hết mình. Nhưng khi thất
vọng thì cũng thật khó gỡ. Anh đã thất vọng vì mọi điều không tốt đẹp
như anh nghĩ, như anh tin, như anh kỳ vọng. Sau chiến tranh, rất nhiều cái xấu,
nhiều người không tốt đã xuất hiện, và họ đã nhiều lần khiến Trần Vũ Mai phải
thảng thốt kêu lên: “Ơ, sao lại thế
này?” Thì nó là thế, biết làm sao!
Bây giờ, không phải nhiều người biết đến Trần Vũ Mai và thơ anh, mặc dù theo
tôi, anh là một trong những nhà thơ tài năng và bản lĩnh vượt trội của thế hệ
thơ chống Mỹ. Cơ sự cho cái thiếu “duyên nổi tiếng” này là ở chỗ Trần Vũ Mai
lúc sinh thời không bao giờ thèm “PR” cho thơ mình. Anh cố ý tránh xa những
nơi có thể đọc thơ hay quảng bá thơ,
nhất là thơ của anh. Công tác ở Nhà Xuất bản Tác Phẩm Mới (tức Nxb Hội Nhà Văn
sau này) nhưng Trần Vũ Mai không hề “nhân dịp” đó để công bố bất cứ tập thơ nào
của mình ở Nhà xuất bản “nhà” này. Và hình như anh cũng hơi thờ ơ với sự công bố tác phẩm của mình
ở những nơi khác. Mai làm việc quá
nghiêm cẩn, anh trăn trở với từng con chữ, nhưng hình như anh chỉ làm thơ cho… mình đọc là chính,
như kiểu anh ghi nhật ký.
Trong số những nhà văn trẻ hồi ấy đi chiến trường, thì Trần Vũ Mai là người chăm ghi nhật ký nhất. Nhiều đoạn
nhật ký của anh được công bố sau khi anh mất (Mai mất năm 1991) mang tính văn học
rất cao, vì được anh viết rất kỹ.
Trường ca Ở làng Phước Hậu của anh được
thai nghén và viết từ một ngôi làng ở Phú Yên. Lúc đầu nó có tên là Cảm
giác lạc quan, nhưng về sau nhà văn Nguyễn Chí Trung, người thủ trưởng đầy
quả cảm trong chiến đấu mà Mai rất quí trọng, đã gợi ý anh nên đổi tên là Ở
làng Phước Hậu cho nó… dễ hiểu. Có lẽ ông Trung thấy cái tên Cảm
giác lạc quan này tuy hay và lạ nhưng hơi… ngài ngại thế nào ấy (?).
Thôi thì lấy tên Ở làng Phước Hậu có vẻ “người thật việc thật”
cho nó... lành. Tôi nghĩ, chính cú “thay tên đổi họ” ấy đã khiến trường ca này,
một trong những trường ca rất hay về cuộc chiến tranh chống Mỹ, có một số phận
hơi khuất lấp. Đó là điều rất đáng tiếc.
Có thể giải mã cái tên ban đầu Cảm giác lạc quan của
trường ca này, khi cái lạc quan ngay sau giải phóng mới chỉ là “cảm giác”. Điều
đó hoàn toàn đúng, và là một người từng ở chiến trường Nam Bộ ngót 5 năm, tôi
chứng thực điều ấy. Khi lạc quan mới chỉ là cảm giác, thì từ lạc quan tới
bi quan lại là một khoảng ngắn. Ai đã từng đi kháng chiến, đã từng sống sau chiến
tranh ở Việt Nam đều thấu hiểu điều này… Nhưng có lẽ Trần Vũ Mai cố gắng để
không tin như vậy. Nhưng rồi thực tế đã buộc anh nghĩ khác. Anh chọn cho mình sự
“giải thoát tạm thời” bằng cách… uống rượu, và chọn giải pháp căn cơ hơn là ghi
nhật ký. Và viết những bài thơ, viết cả một trường ca mới Nàng chim Lạc mà
anh cất trong ngăn kéo để chơi.
Tôi ít thấy một nhà thơ nào mà coi danh vọng “không là
cái đinh gì” như Trần Vũ Mai. Nhớ ngày mới giải phóng, giữa Sài Gòn tôi gặp lại
Trần Vũ Mai khi anh theo quân đoàn 2 đánh vào Sài Gòn. Mai đi xe jeep, rủ tôi
vào nhà hàng Thanh Thế uống rượu tây. Trông anh giống hệt Hemingway khi ông chiến
đấu ở Tây Ban Nha trong nội chiến. Mà đúng là trong đời, Mai chỉ thần tượng có
hai người: một là Trần Mai Ninh, và hai là Hemingway. Đều là hai nhà thơ nhà
văn ưa mạo hiểm và sống lãng tử. Trần Vũ Mai cũng vậy. Anh đã mạo hiểm trong
chiến tranh. Và mạo hiểm cả trong hòa bình. Ngay cái chết của anh cũng mơ hồ và
bí ẩn như cái chết của Trần Mai Ninh và Hemingway. Dù là chết trong hòa bình.
Trần Vũ Mai có hai bài thơ viết trước và sau khi đã ở chiến
trường gây được ấn tượng rất mạnh đối với tôi và nhiều anh chị em làm thơ khác
cùng thế hệ, đó là bài thơ Thành phố nghiêng mình viết ở Nha
Trang tháng 4 năm 1975, và bài thơ Thảm cỏ bờ sông Hồng viết đầu
năm 1971 trước khi rời Hà Nội vào chiến trường Cực Nam Trung Bộ. Rồi tôi đọc và
tìm thêm một bài thơ nữa mà tôi rất thích, vì nó bộc lộ được những yêu thương,
dằn xé và đau buồn của Trần Vũ Mai, đó là bài thơ Tự khúc viết
tháng 9 năm 1978.
Từ phải sang, các nhà văn Trần Vũ Mai, Thanh Quế, Dương
Đức Quảng, Nguyễn Khắc Phục tại chiến trường khu V.
Bây giờ, đọc lại bài thơ Thảm cỏ bờ sông Hồng,
bài thơ Trần Vũ Mai viết đầu năm 1971, trước khi rời Hà Nội vào chiến trường
khu Năm cùng anh chị em trong lớp viết văn trẻ đặc biệt của Hội nhà văn Việt
Nam, bài thơ vừa dịu dàng vừa mãnh liệt, vừa hồn nhiên vừa kiêu hãnh, tôi lại
càng tiếc cho một tài năng thơ đã sớm bị cắt ngang mạch sáng tạo. Vào một lúc
tĩnh tâm nào đó, có lẽ chúng ta nên đọc lại bài thơ này để có cảm nhận sâu hơn
về một thế hệ đã dấn thân vào chiến trường những tháng năm ác liệt nhất.
THẢM CỎ BỜ SÔNG HỒNG
Buổi sớm
gương mặt em như xa vắng
anh đi những phố hè tìm mọi mảnh đường quen
lổ đổ tinh mơ rêu phủ
đường cong xa vời
gạch lửa phơi đỏ thắm
Đã từng mưa ở đây
Nắng đã từng trắng
mảnh tường tươi này
anh thuộc lòng dấu cũ em qua
Bữa ấy chúng mình đi trong đêm lửa đạn sông Hồng
mưa lũ
tay em lạnh mà không run sợ
anh nghĩ ngày mai còn trời đạn ấy
mặt anh thì xạm cháy
nhưng ngày mai ơi
chớ vắng bàn tay em
trên đôi vai người lính của ta cứng cỏi từ năm vào cuộc
ngày mai ơi
Hà Nội không phai
suốt một ngày bầu trời thăm thẳm
nhớ riêng em
tôi nhớ những gì tôi chưa có được
thảm cỏ bờ sông Hồng non tơ
màu cẩm thạch nghiêng chào giã biệt
nếu ta có lỗi với em
cũng vì ta muốn mình không có lỗi
trước mặt em còn được tươi cười
giọng vang và trẻ mãi
bao giờ ta cũng chỉ là ta thôi
Cùng với những gì ta mến yêu sầu tư mộng tưởng
thảm cỏ bờ sông Hồng phủ bọc trái tim
nơi sâu kín ấy cũng đã bị đạn bom chạm tới
những tròng mắt đảo điên để ý đến ta rồi
đừng buồn em nhé, bây giờ
hồi em buồn nhớ
anh còn buồn hơn
Em
nhỏ bé mà trắng tinh
trước mặt thảm cỏ dòng sông
cầm tay một bông đại đóa
em ạ, chớ buồn
anh vào cực Nam đây.
(Hà Nội, 3/1971)
Nhưng một bài thơ có thể coi là “Tuyên ngôn Thơ” của
riêng Trần Vũ Mai, được anh viết ngay sau ngày kết thúc chiến tranh, bài
thơ Thành phố nghiêng mình viết về Nha Trang, có gắn với Tuy
Hòa, nơi Trần Vũ Mai từng nằm hầm bí mật những năm tháng chiến tranh, lại cho
tôi một ấn tượng choáng ngợp khi lần đầu tôi được đọc bài thơ này in trên tờ Văn
nghệ giải phóng Trung Trung Bộ (cái tên tôi nhớ không rõ lắm) vào
tháng 6 năm 1975 ở Đà Nẵng. Đây là bài thơ đầy yêu thương của nhà thơ Trần Vũ
Mai và đầy chất thép của người lính Việt Cộng Trần Vũ Mai. Đúng như Xuân Diệu
viết “Yêu và căm hai đợt sóng ào ào”, bài thơ của Trần Vũ Mai khởi đi một
mạch, như tác giả đã viết nó trong cơn xuất thần, chất chứa bao điều muốn nói.
Tôi nghĩ, thành phố Nha Trang, dù bây giờ có đổi khác thế nào, thì vẫn là thành
phố dưới chính thể này, và nên coi bài thơ Thành phố nghiêng mình của
Trần Vũ Mai như một bảo vật văn hóa của thành phố mình. Không phải thành phố
nào ở Việt Nam cũng có được một bài thơ như thế đâu.
THÀNH PHỐ NGHIÊNG MÌNH
Đến năm ấy chúng xây thành dựng lên cửa sắt
Khai trương một thời xích xiềng roi vọt
Ôi, Nha Trang, người bỗng hóa ngục tù
Lúc bấy giờ
Nha Trang
Những mẹ già dắt tôi qua đường tối
Có những trái mìn quân thù giấu lại
Bay khát thèm máu của ta chăng!
Lúc bấy giờ gió cũng lặng yên
Thời gian khó, giấc mơ tôi kỳ diệu
Làm sao cho một sáng đứng lên
Để ánh ngày soi tỏ mặt tỏ tên
Những mẹ già dắt tôi qua đường tối
Hết đêm này đêm nọ chẳng hề ngơi
Lúc bấy giờ
Tôi vẫn sống, em vừa ngã xuống
Máu em thấm nơi cửa hầm đỏ đất
Tôi nhìn trời có nghĩa gì đâu
Đôi cuộn mây hồng hay ánh trăng sao
Em thường nói, rồi chúng mình trẻ mãi
Tôi cầm khẩu súng em, lắng nghe lần cuối
Đêm vượt đường chim dậy hót cho em
Rồi tôi đi qua mấy cánh rừng
Vượt mấy dòng sông trải nhiều trận đánh
Lòng nông nổi nhớ em như biển
Như thiếu muối và thương nhớ biển
Trong trái tim mình lấp lánh cả đời em
Tôi qua mấy chục cánh rừng
Có đêm chợp ngủ bên dòng Đak Suk
Súng để gối đầu chân thì gối dép
Nghe ngọn gió nào cũng như gió Nha Trang
Từ Buôn Mê Thuột gợi lòng
Cứ nhìn về phía biển
Biết nói gì, biết nói làm sao!
Ở Tuy Hòa khi tiếng hát ngân cao
Hát ca ngợi tháng ngày vĩ đại
Quân đoàn đi như sóng cuộn trên đường
Vượt núi non, qua những cánh đồng
Qua những sân nhà, những ngọn cờ Tổ quốc
Ôi, ngày hôm nay chúng ta có được
Cả đoàn quân rực rỡ ánh ban mai
Như bờ biển sóng vun như những luống cày
Tôi ngoảnh lại
Tuy Hòa rung mềm mại
Tuy Hòa vui trong gió thổi
Lúc bấy giờ
Lúc ấy
Hỡi Nha Trang!
Lúc bấy giờ
Nha Trang
Nha Trang ngục tù hóa thành chợ búa
Chợ cháy ra tro, chúng ngả nghiêng cười
Thằng đại tá một đêm tháo thạy
Trong nhà tắm mảnh cờ vàng chết đói
Súng và hoa cả xác chết ngoài sông
Những con tàu đổ người xuống biển
Ngày giam trong khóa xích
Đàn chó hoang rên rỉ cuối đường
Lúc bấy giờ
Nha Trang
Những người phá thành phá vây đã tới
Nha Trang nghiêng mình
Manh áo Mỹ bạc màu rơi xuống biển
Những em gái cầm chổi ra đường
Hốt rác đầu mũ lính
Thành phố hiện ra cùng ánh cờ sao
Tưởng như thế cuộc đời vô tận mãi
Bao hạnh phúc nở ra nhiều hoa trái
Vâng, cho dù như thế các anh ơi
Nếu kẻ thù đã chết
Thì tội ác bay vẫn còn ở Nha Trang
Ghi trên nét mặt, khắc giữa lòng đường
Đây lời nhắn đã thấm vào ngọn lửa
Của người hy sinh những trận phá thành
Hạnh phúc sẽ kéo dài vô tận
Là cây lá dần xanh trở lại
Là những tường nhà Nha Trang không còn dấu đạn xuyên
Là đất đai, biển cả, khoảng không
(trừ đi những phần kia còn chất độc)
Là vẻ đẹp người hôm nay ca hát
Là đồng hoang trở lại những mùa vui
Chiều buông xuống chan hòa trời biển
Là đứa con tôi mai mốt ra đời
Từ lâu lắm
Nếu kẻ thù đã chết
Thì tội ác bay vẫn còn ở Nha Trang
Tôi tìm mẹ tôi trên mỗi đoạn đường
Mìn xếp đống góc sân nhà mẹ
Ồ, ánh ngày sao mà sáng thế
Mẹ già ơi, con muốn khóc, lòng con
Lòng con chẳng biết nói sao nữa, mẹ
Khi mẹ kể cùng con và thành phố nghiêng mình
(Nha Trang tháng 4/1975)
Và bài thơ thứ ba, bài Tự khúc viết ở Hà
Nội năm 1978, khi Trần Vũ Mai đã buồn nhiều hơn vui. Khi anh đã, như người Mỹ
sau chiến tranh thường nói, mắc vào “hội chứng thời hậu chiến”. Tôi không biết
những người lính Mỹ mắc phải hội chứng này ra sao, nhưng với thi sĩ Việt Nam và
người lính Việt Cộng Trần Vũ Mai, thì đây là một hội chứng khốc liệt. Chúng ta
đọc bài thơ Tự khúc và tự cảm nhận điều đó. Bài thơ này Trần
Vũ Mai viết cho riêng mình, nhưng đã nói được rất nhiều cho những người lính
cũ, người kháng chiến cũ chúng tôi. Không nguôi yêu thương, nhưng không thể dứt
đau buồn. Và đúng như một câu trong bài thơ, nhiều lúc như rơi vào “vô vọng”.
TỰ KHÚC
Lúc bình minh mà vắng cả sắc màu
anh nằm xuống nhìn lên kia vô vọng
anh đã hét trong phòng im cửa đóng
lúc thương người lại giận chính mình thôi
đêm lúc lặng thinh nghe vắng vẻ cuối trời
ai chẳng đến với anh như thế cả
chắc vì em nên gió chiều rực rỡ
nửa khuya rồi mưa lạnh thấm hai ta
đường vẫn cũ xưa trời thẳm vẫn cao xa
có chăng mới là giọng em hát đó
có chăng mới tiếng cười em nho nhỏ
vỡ tan dần trong thầm lắng lòng anh
ôi chim xa của đôi cánh ân tình
của tiếng hót làm vui làm đau đớn
của tĩnh mịch ngẩng trông lên cao thẳm
của tình yêu trời đất đã ban cho
sóng biển vừa gieo hai ta lên bờ
không tất cả có lẽ phải thế
không thể khác chắc sẽ là phải thế
mang nỗi sầu tha thiết nhớ em yêu
(9/1978)
THANH THẢO
Theo Văn Nghệ, 31/2019
TIN VĂN
KHÁC: