Nhà thơ Quang Chuyền
Quang Chuyền làm thơ từ rất sớm. Ngay từ những ngày học
phổ thông anh đã có thơ in báo. Năm 1966, khi vừa tròn 21 tuổi, anh tốt nghiệp
thủ khoa ngành xã hội Trường trung cấp sư phạm Việt Bắc, khi ấy cả khu tự trị
Việt Bắc gồm Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang chỉ
có 1 trường sư phạm. Trong thời gian học, anh được hai giáo viên nhà trường,
cũng là hai nhà thơ hội viên hội văn nghệ Việt Bắc là Khánh Kiểm và Lương Thanh
Nghĩa nhiệt tình giới thiệu về công tác ở Hội. Cũng phải nói thêm, sở dĩ anh
nhanh chóng được nhận về cơ quan văn nghệ của khu cũng lí do Quang
Chuyền là một đảng viên cộng sản rất trẻ. Được kết nạp Đảng
khi còn đang là một học sinh bây giờ như không có gì thật đặc biệt nhưng với
ngày ấy thì đó là một “sự kiện”, rất hiếm có nên rất dễ gây niềm tin cho những
người làm công tác tổ chức.
Ở Hội, Quang Chuyền được phân công làm phóng viên cho tạp
chí Văn nghệ Việt Bắc. Cùng với Quang Chuyền thời gian đó còn có thêm nhà thơ
Bùi Công Bính, từ thư kí toà soạn báo Hà Giang chuyển về. Bùi Công Bính từng có
riêng cho mình tập thơ “Cả bản nhớ anh” xuất bản từ năm 1960. Hai
người hai tính cách. Bùi Công Bính nhanh nhẹn, hóm hỉnh còn ngược lại Quang
Chuyền hiền lành, ít nói.
Nhưng cũng chỉ hai năm sau Quang Chuyền đã trích máu làm
đơn tình nguyện xin đi bộ đội. Đang giai đoạn chiến tranh khốc liệt
nhưng cũng phải sau 7 lần làm đơn, nguyện vọng chính đáng của anh mới được cấp
trên chấp thuận. Quang Chuyền trở thành lính ở trung đoàn 132 xây dựng đường
dây Thống Nhất từ Bắc vào Nam dọc Trường Sơn. Sau đó hơn 2 năm, anh được điều về
phòng chính trị Binh chủng Thông tin liên lạc làm công tác tuyên truyền và sáng
tác.
Nhà thơ Nguyễn Thuỵ Kha có kể lại: “Tôi gặp Quang Chuyền
mùa mưa 1974 tại sông Bung - Quảng Nam sau chiến dịch Thượng Đức. Lúc ấy Quang
Chuyền có chuyến xuyên Trường Sơn cùng nhà thơ Xuân Miễn và Trọng Tân. Xuân Miễn
khi đó đã là nhà thơ rất nổi tiếng còn Quang Chuyền và Trọng Tân là cán bộ
tuyên huấn thuộc Bộ tư lệnh Thông tin. Sau chuyến đi đó Quang Chuyền trở thành
nhà thơ còn Trọng Tân trở thành nhà văn. Hoá ra Trường Sơn là cái nôi nuôi dưỡng
tạo ra những nhà văn, nhà thơ.
Đúng như nhận xét của Nguyễn Thuỵ Kha, những chiến sĩ đã
qua Trường Sơn đam mê thơ phú thì sau dần đều thành danh ít nhiều trên văn đàn.
Riêng ngành thông tin liên lạc, đặc biệt là Binh chủng Thông tin - liên lạc,
ngoài Quang Chuyền còn có nhà thơ Anh Ngọc, Phạm Đức, Nguyễn Thuỵ Kha, Nguyễn
Duy, Nguyễn Văn Chương... nhà văn Phạm Đình Trọng, Nguyễn Trọng Tân, Nguyễn Tiến
Hải, Xuân Mai...
Trong hơn hai mươi năm bận mải binh nghiệp nhưng Quang
Chuyền vẫn không ngừng làm thơ. Như tất cả những nhà thơ quân đội, anh có nhiều
thơ về chiến tranh. Với đề tài này Quang Chuyền có những nỗi niềm.
Trong thơ anh ít thấy ồn ào tiếng súng đạn nhưng không vì thế người
đọc không khó gì để thấy những tàn khốc, mất mát, thương đau của chiến tranh:
“... Và đâu nữa đêm đất rừng chảy máu/ Bom phạt , cây tan ,
dép mũ lạc người /Cả bia mộ cũng lạc tên tuổi bạn / Chỉ đất còn lưu giữ dáng
người thôi..." hoặc: “Đất nhuộm chi đỏ thế / Lửa chiến tranh
điêu tàn / Máu còn loang mặt đất / Chạm vào còn ấm ran” hoặc nữa: “Hồn
người lẩn khuất đâu đây / Hình như trong lá trong cây của rừng”.
Quang Chuyền đã trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Thơ anh
luôn xuất hiện trên báo chí văn học cả nước. Đã có cho mình 10 tập thơ in riêng
cùng 2 tập in chung và mới đây, anh xuất bản tập thơ tuyển chọn. Hơn nữa anh
còn vinh dự 4 lần đứng trên bục nhận giải thưởng chủ yếu là các giải thưởng văn
học quốc gia. Từ binh nhì rồi trở thành trung tá, phó tổng biên tập báo Thông
tin, được điều động làm phó chủ nhiệm chính trị lữ đoàn 596 Bộ tư lệnh
Thông tin - liên lạc, Cương vị ấy không ít người người sẽ thay đổi
tính cách. Nhưng Quang Chuyền thì không. Tôi quen biết anh đến nay đã gần nửa
thế kỉ. Đó là năm 1966, ngày anh mới về nhận công tác ở Hội Văn nghệ Việt Bắc.
Khi ấy tôi công tác ở Sở văn hoá khu tự trị Việt Bắc.Tiếng là hai cơ quan nhưng
ban đầu thực chất là một vì phần lớn những người đầu tiên sang công tác bên hội
đều là người của sở văn hoá. Hơn nữa đó là thời kì chiến tranh phá hoại, hai cơ
quan cùng sơ tán dưới một cánh rừng già thuộc xã Cúc Đường, huyện Võ
Nhai, cách thành phố Thái Nguyên gần 40 cây số. Hàng ngày mọi người như luôn
luôn gặp nhau nên dễ trở thành thân thiết.Cảm nhận ban đầu Quang Chuyền vẫn
nguyên chất một cậu học sinh nông thôn mới ra trường, có khuôn mặt bầu bĩnh,
lành hiền, chất phác. Còn khá rụt rè, nghe nhiều hơn nói. Trong
chuyện trò thấy anh hay lẫn giữa vần L và N. Bất cứ ai khi tiếp xúc với Quang
Chuyền, dù chỉ một lần nhưng sẽ phải yêu mến anh ngay vì sự thật thà, khiêm nhường.
Quan hệ với anh luôn đem lại không chỉ cho tôi mà còn cho những người
được tiếp cận anh một sự yên tâm, tin cậy.
Nhưng khi đang thân thiết thì anh gia nhập bộ đội còn tôi
sau đó chuyển về Hà nội nên bẵng tin nhau. Để mãi gần đây có dịp vào
Thành phố Hồ Chí Minh, qua nhà văn Nguyễn Khoa Đăng biết điện thoại anh, tôi gọi.
Kì lạ sao, dù đã gần năm mươi năm không gặp nhưng vừa thấy tôi anh đã nhận ngay
ra tôi. Còn Quang Chuyền tôi vẫn thấy không mấy khác ngoại trừ anh có già hơn,
trên mép nay thêm hàng ria con kiến. Vẫn ít nói, lành hiền, phúc hậu như nguyên
cậu học sinh mới ra trường hồi nào. Giọng nói vẫn từ tốn, khiêm nhường, mộc mạc
và tôi để ý, trong câu chuyện dù anh đã ý thức nhưng đôi khi anh vẫn không
tránh khỏi lẫn giũa vần L và N.
Tôi biết, sau khi giải ngũ Quang Chuyền cùng gia đình định
cư tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đã nhiều năm qua có nhà cao cửa rộng ở nơi phố thị
sôi động vậy nhưng anh như lạc lõng trong đó: “Nhiều năm tôi gửi bóng mình /
Ở nơi phố thị Tân Bình nắng mưa / Người đông ồn ã dư thừa / Tôi thường đi sớm
về trưa một mình…” Anh đau đáu những kỉ niệm với Tuyên Quang,
nơi tuổi thơ anh trôi giạt thời kiếm sống: “Chiều thành Tuyên / Nắng khép dần
cửa sổ / Đáy sông Lô nở chùm hoa lửa /Chim về sải cánh qua soi / Sóng thở bồi hồi
/ Giục phà sang Nông Tiến...Bài thơ anh làm ngày mới vào bộ đội đã được in
trong tạp chí Văn Nghệ Quân Đội từ năm 1968.
Với nhiều người khác, cuộc sống nơi đất mới đời sống vật
chất khá giả, sung túc hơn, thường tính cách dễ thay đổi nhưng anh thì hoàn
toàn không khác gì. Vẫn đậm con người nông dân làng gốm Vĩnh Phúc, pha lẫn chất
chân thật miền núi Tuyên Quang. Có lẽ bởi thế nên anh đã “Tự hoạ” chân dung
mình một cách rất mộc mạc, thành thực khiến người đọc phải yêu
thích: “Ta là một gã nhà quê/ Bước đời không định lạc về phố đông/ Bữa
ăn thường thích cua đồng / Dưa chua, tương mặn, cải ngồng bãi soi / Trong
con người “nhà quê” Quang Chuyền lành hiền kia khôn nguôi khắc khoải nỗi nhớ về
quê cũ: “Ai không có một nẻo về / Ai không có một chốn quê riêng
mình / Ai không có khoảng trời xanh / Ai không có một mái đình cây đa”. Đọc
tâm sự của anh làm tôi không khỏi nhớ tới câu
thơ của nhà thơ Đỗ Trung Quân: “Quê hương nếu ai không nhớ / Sẽ không lớn nổi
thành người...”
Nỗi nhớ quê hương trong Quang Chuyền không phải chỉ nhớ về
những năm tháng khó khăn ngày ây: “Củ khoai, khúc sắn cong queo / Vùi trong
tro trấu gieo neo mùa màng”mà còn là kỉ niệm sâu sắc. Anh có quen một người
con gái quê Tuyên Quang, rồi yêu nhau thủa đi học sư phạm bên Thái Nguyên. Hai
người thề ước. Mối tình mơ mộng ấy kéo dài đã mấy năm. Nhưng gần đến ngày cưới
thì chị chẳng may gặp tai biến chấn thương sọ não. Nhiều người lo ngại cho anh
nếu xây dựng gia đình với một người con gái đau yếu bệnh tật làm sao có thể sống
bình thường nói gì đến sao có đủ sức thay anh quán xuyến gia đình còn mẹ già, bốn
em dại của anh? Nhưng rồi sau nhiều thao thức, trăn trở, anh tỉ tê thuyết phục
mẹ. Đời con gái có thì, người ta đã bao năm chờ đợi, nay chẳng may gặp tai ương
sao đành rời bỏ? Đạo lí, tình nghĩa. Quyết tâm của anh đã cảm động được đơn vị,
cảm hoá được gia đình, họ hàng. Đám cưới được tổ chức ngay khi sức khoẻ người
yêu có phần trở lại. Làm sao anh quên được những ngày hạnh phúc đến với anh
khi ấy: “Mười ngày nghỉ phép thăm quê / Ta làm lễ cưới em về
cùng anh / Tuần trăng chừng đã vào rằm / Nỗi vui oà vỡ tám năm đợi chờ”.
Đúng là ông trời có mắt. Sau khi xây dựng gia đình, sức khoẻ của vợ
anh khá lên. Chị đã sinh cho anh ba người con, hai trai một gái, các cháu trưởng
thành có công ăn việc làm ổn định và hiện nay anh có năm cháu nội ngoại quây quần.
Tuy không thể như một người bình thường nhưng những công việc gia
đình, chị vẫn giúp anh quán xuyến. Hôm tôi đến thăm gia đình Quang Chuyền ở gần
sân bay Tân Sơn Nhất, vợ anh vẫn lo cơm nước tiếp khách rất chu đáo. Tôi rất mừng
cho bạn.
Người ta thường nói, thơ là người. Có nhà thơ viết, đại ý
anh dấu đâu cũng được nhưng trong thơ thì không thể giấu. Tức là sống giả thì
chắc chắn thơ dù hay mấy vẫn cứ thành giả. Hình như vậy nhưng đâu có phải vậy.
Nhiều người viết rất hay, nói rất hay nhưng trong tư cách, trong hành xử lại
trái ngược. Mà không phải ít.
Nhưng tôi tin chắc, thơ và người hoàn toàn là một sau khi
quen biết và được đọc tất cả những gì mà nhà thơ Quang Chuyền đã viết ra. Trong
cuộc đời, tính cách và thơ ca của anh là nhất quán. Anh tâm sự “tôi xin cảm
ơn cuộc đời đã cho tôi những khoảnh khắc thăng hoa để viết nên những dòng thơ về
con người, cuộc sống, để giãi bày lòng tôi”.
HUY THẮNG
Theo NVTPHCM
TÁC GIẢ & TÁC PHẨM KHÁC: