GS Huỳnh Như Phương
GS Huỳnh
Như Phương là nhà giáo chuyên
giảng dạy lý thuyết văn học ở Trường ĐH KHXH&NV - ĐHQG TP.HCM, đồng thời là
nhà nghiên cứu, phê bình văn học trước năm 1975. Lúc chưa tới tuổi 20, Huỳnh
Như Phương đã có bài đăng trên
các tạp chí có khuynh hướng
thiên tả lúc đó như Trình Bầy, Đối Diện.
Văn học miền Nam là thành phần hữu cơ của văn học dân tộc
* Thưa
ông, được biết thời đại học, hai năm đầu ông học triết ở ĐH Văn khoa Sài Gòn,
sau ngày thống nhất ông lại được ra Hà Nội học tiếp về văn học. Ông có cho trường
hợp mình là may mắn vì được học ở hai nền giáo dục hoàn toàn khác nhau để bổ
sung cho nhau?
- Chúng ta là đồng môn, chắc anh hiểu rõ hoàn cảnh khó
khăn những năm tháng đó. Nhiều lớp sinh viên ở ban Triết có bằng cử nhân đã
không thể tìm được việc làm. Lớp chúng tôi học dở dang, được chuyển sang ngành
văn, phải kéo dài sáu năm ở đại học nhưng vẫn may mắn hơn nhiều người khác
không có điều kiện theo đuổi con đường học vấn. Nghĩ đến sự may mắn của mình,
nhiều khi tôi cảm thấy có lỗi với một số người cùng thế hệ. Tôi đã thụ hưởng nền
giáo dục miền Nam từ tiểu học đến đại học, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa bốn
năm đại học và bốn năm sau đại học. Không thể nói phần nào quan trọng hơn nhưng
nếu mình biết chắt lọc và tiếp thu thì chắc chắn cả hai đều có ích cho nghề
nghiệp hiện nay.
* Ông có thể kể lại vài kỷ niệm đáng nhớ về những
năm học ĐH Văn khoa Sài Gòn và ĐH Tổng hợp Hà Nội?
- Khuôn khổ trang báo không cho phép tôi nói gì nhiều. Vả
chăng, những kỷ niệm đó tôi đã ghi lại trong hai bài viết “Văn Khoa
ngày tháng cũ” và “Hà Nội trong sương mù ký ức”, hiện còn
lưu giữ trên các trang mạng. Tôi nghĩ rằng đó là những cơ hội cho tôi hiểu sâu
hơn hoàn cảnh đã tác động đến con người như thế nào và người ta có khả năng
kháng cự lại hoàn cảnh hay không. Đôi khi tôi nghĩ vẩn vơ nếu như đất nước thống
nhất sớm hơn hoặc muộn hơn, thân phận của những người trẻ thế hệ chúng tôi sẽ
thay đổi ra sao. Và trong cái tình huống cực đoan của lịch sử đất nước ta, con
người phải làm gì để giữ được chân dung tinh thần của mình.
Văn học ở miền Nam là một thành phần hữu cơ của văn học
dân tộc. Nhìn nhận một cách công bằng, khách quan sẽ góp phần hòa giải, hòa hợp
dân tộc.
“Tôi thấy mình phải có trách nhiệm giới thiệu về văn học
miền Nam”
* Có phải do có thời gian học ở ĐH Văn khoa Sài
Gòn mà trong một số tác phẩm, đề tài khoa học và nhiều bài viết, ông đã đầu tư
nghiên cứu về văn học miền Nam trước 1975?
- Thật ra năm 1975 tôi mới vừa 20 tuổi, trước đó có mấy
bài đăng báo nhưng đọc và tích lũy tư liệu về văn học chưa được bao nhiêu. Sau
này, vì công việc dạy học, tôi thấy mình phải có trách nhiệm sưu tầm, giới thiệu
với sinh viên hoạt động văn học ở miền Nam mà tôi luôn quan niệm đó là một
thành phần hữu cơ của văn học dân tộc. Cuốn sách đầu tiên tôi biên soạn được xuất
bản ngay từ đầu thời đổi mới là một tuyển tập truyện ngắn miền Nam có nhan đề Mùa
xuân chim én bay về (NXB Cửu Long, 1986). Từ ấy đến nay tôi có viết một
số bài và tham gia hai công trình nghiên cứu tập thể về đề tài này. Điều khiến
tôi ngạc nhiên và thú vị nhất là những người khuyến khích và giúp đỡ chúng tôi
trong công việc này không chỉ là các nhà văn, nhà nghiên cứu ở miền Nam mà còn
có những đồng nghiệp rất nhiệt tâm ở Viện Văn học, ĐH Sư phạm và ĐH Quốc gia Hà
Nội. Gần đây tôi lại có niềm vui là sau khi công bố những bài viết về chủ nghĩa
hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa Marx ở miền Nam, tôi nhận được phản
hồi, góp ý từ những học giả cao niên rất có uy tín.
* Hồi tháng 10 năm ngoái, Hội Nhà văn Việt Nam
(VN) đã tổ chức cuộc tọa đàm “Nhận diện văn chương Hà Nội thời tạm chiếm
(1947-1954)” với nhìn nhận: “Văn học sử VN còn mắc nợ văn chương Hà Nội vì đã bỏ
quên một không gian văn học đầy giá trị…”. Thế còn những tác phẩm giá trị của
nhiều nhà văn đô thị miền Nam thời kỳ 1954-1975, Hội Nhà văn VN và Hội Nhà văn
TP.HCM (mà ông từng là thành viên ban chấp hành) có thấy mắc món nợ văn chương
này không?
- Tôi không phải hội viên Hội Nhà văn VN nên không đủ thẩm
quyền trả lời câu hỏi này của anh. Tôi có tham gia ban chấp hành Hội Nhà văn
TP.HCM một nhiệm kỳ (2005-2010), người ít, chỉ việc khảo sát, tổng kết hoạt động
sáng tác đương thời và tổ chức giao lưu, trao đổi kinh nghiệm đã không đủ thời
gian. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng những người thiện chí đều thừa nhận đó là một
món nợ, món nợ lớn mà trả thì quá chậm. Tình hình gần đây có vẻ thuận lợi hơn
nhưng điều đáng buồn là giới nghiên cứu, phê bình trong nước chưa quan tâm đúng
mức đến việc này. Có lẽ cuộc sống bây giờ có quá nhiều nỗi lo, nỗi lo văn học
chưa phải là điều bức xúc nhất chăng? Dù sao hiện nay khó ai bác bỏ được sự thật
là trong những năm chiến tranh, giới trí thức sáng tạo ở miền Nam đã cho ra đời
nhiều tác phẩm mang phẩm cách dân tộc, tinh thần nhân đạo và giá trị nghệ thuật
theo hướng cách tân và hiện đại. Tôi luôn tin rằng nhìn nhận văn học quá khứ một
cách công bằng, khách quan sẽ góp phần hòa giải, hòa hợp dân tộc và phát huy
các nguồn lực tinh thần để bảo vệ, phát triển đất nước.
Chưa bao giờ không gian văn học mở rộng như những ngày
này. Lớp nhà văn, nhà phê bình độ tuổi trên dưới 40 hiện nay rất đáng nể.
Phê bình bị chê trách vì không chống đỡ được với óc bè
phái
* Trong một giai đoạn mà phê bình văn học có phần
vắng lặng, có ý kiến đánh giá phê bình văn học hiện nay chủ yếu là khen ngợi và
ve vuốt nhau. Theo ông, nhận xét như thế có quá khe khắt không?
- Không thể chối cãi đó là một phương diện của đời sống
phê bình văn học hiện nay. Phê bình bị chê trách vì không chống đỡ được với những
cám dỗ của tính vụ lợi, sự đố kỵ, óc bè phái và sự đả kích cá nhân. Những người
làm phê bình như chúng tôi chắc chắn là có lỗi rồi nhưng bạn đọc và báo chí
cũng có một phần trách nhiệm. Thử hỏi bạn đọc bây giờ có thích đọc phê bình
không, báo chí có chịu đăng những bài phê bình đúng nghĩa không? Biết bao nhiêu
cuộc hội thảo, tọa đàm đã lên tiếng, đề xuất giải pháp nhưng sao tình hình phê
bình vẫn chưa được cải thiện? Có lẽ phải cần thời gian suy nghĩ kỹ hơn, sâu hơn
để tìm câu trả lời đích thực về điều này. Mặt khác, cũng không nên đặt trên vai
phê bình một sứ mạng quá lớn.
Một thế hệ cây bút mới đang xuất hiện và khẳng định mình
không phải chủ yếu bằng những phương tiện và con đường của những lớp nhà văn
trước đây: các tạp chí văn nghệ, các giải thưởng văn học, sự tán dương của giới
phê bình… Những hồi ứng của bạn đọc chưa bao giờ nhanh nhạy như hiện nay và điều
đó làm bộc lộ sự chậm chạp, trễ nải và cả uy tín sút giảm của phê bình chuyên
nghiệp. Tất nhiên, thời nào cũng có những cây bút viết sơ lược, sáo mòn về đề
tài, bút pháp, chạy theo những vinh hoa phù phiếm. Nhưng thời nào cũng phát hiện
được tài năng đích thực. Tôi thấy lớp nhà văn, nhà phê bình độ tuổi trên dưới
40 hiện nay rất đáng nể, tôi tin là họ sẽ làm nên chuyện.
* Xin cám ơn ông về cuộc trao đổi này.
PHẠM CHU SA thực
hiện
Theo PLO