Nhà thơ - triết gia Phạm Công Thiện
LỜI
NÓI ĐẦU
Sách này sẽ cố gắng giới thiệu đến người đọc tiếng Nhật về
nhân vật Phạm Công Thiện (1941-[2011]) - một tư tưởng gia, một thi sĩ đã xuất
hiện tại Nam Việt Nam (tức Việt Nam Cộng hoà) thời chiến tranh Việt Nam, cũng
như muốn làm sáng tỏ tư tưởng được cho là khó hiểu trong các tác phẩm của ông.
Phạm Công Thiện là một trí thức Phật giáo đại biểu cho
Nam Việt Nam thời chiến tranh Việt Nam. Từ khoảng giữa thập niên 1960 trở đi,
khi những trước tác của ông liên tục xuất bản, thì tiếng tăm ông lan rộng đến mức
trở thành một hiện tượng thịnh hành với tên gọi hiện tượng Phạm Công
Thiện, thậm chí còn được tôn sùng như thần tượng của giới
trẻ đang sống trong tuyệt vọng chiến tranh(1). Thế nhưng đột nhiên
ông mất tích khỏi Việt Nam vào năm 1970. Có thi sĩ gọi ông là ngôi sao
băng(2).
Về một Phạm Công Thiện như ngôi sao băng đột
ngột xuất hiện ở Việt Nam, xé toang đêm tối của thời đại chiến tranh rồi bất ngờ
biến mất, hầu như không được biết đến ngoài lãnh thổ Việt Nam, và ngay ở Việt
Nam hiện tại cũng chưa có được một đánh giá nghiêm cẩn(3). Tuy
nhiên, theo như tôi thấy, ông không những mười phần xứng đáng để nghiên cứu lại
như là nhân vật đã cật vấn rất căn nguyên về địa ngục chiến tranh Việt Nam ngay
tại đất nước đương sự, mà tôi cho rằng tư tưởng ông đưa ra chứa đầy tính trọng
yếu không thể nào bỏ qua được đối với chúng ta những kẻ đang sống trong thế giới
hôm nay mà toàn thể địa cầu đã bị phủ kín bởi tri thức cận đại và khoa học kỹ
thuật có nguồn gốc từ Tây phương. Cho nên, lẽ thường, tôi phải giới thiệu ông
qua cách giải thích của riêng mình đối với tư tưởng nan giải của ông.
Điều trọng yếu cần phải quan tâm khi nghiên cứu tư tưởng
Phạm Công Thiện đó chính là những tác phẩm mà ông đã viết, còn mấy thứ như kinh
nghiệm từng trải, quá trình học tập hay công ăn việc làm chỉ dừng ở mức yếu tố
thứ yếu. Tuy nhiên, với một nhân vật có thể nói gần như vô danh tại Nhật Bản, dầu
sao chăng nữa trước tiên hết, tôi muốn giới thiệu thật đơn giản coi Phạm Công
Thiện là nhân vật như thế nào. Để vậy, có lẽ phương pháp tốt nhất là trích dẫn
nguyên văn mấy lời tự giới thiệu bản thân rất khác thường do chính ông viết vào
những năm giữa tuổi 20. Trong thi tập Ngày Sanh của Rắn xuất bản
năm 1966, bài tự giới thiệu được viết như sau:
Sinh vào năm rắn, bên dòng sông Cửu long, vì tranh luận học
vấn với giáo sư, nên bỏ học trường lúc 13 tuổi, viết sách lúc 14 tuổi; làm giáo
sư sinh ngữ từ lúc 16 tuổi đến 20 tuổi tại những trường ở Sài Gòn, Mỹ Tho, Đà Lạt,
Nha Trang; quyển sách khảo luận đầu tiên được xuất bản vào lúc 16 tuổi(4),
viết quyển Ý thức mới trong Văn nghệ và Triết học vào lúc 20
tuổi; học triết lý tại trường đại học Yale, đệ trình tiểu luận Ý niệm về chân
lý trong tư tưởng Platon và Heidegger tại hội thảo triết lý ở Yale; tiếp tục học
triết lý tại trường đại học Columbia, khinh bỉ giáo sư và bỏ học bổng của Viện
Giáo dục Quốc tế, bị viện mời đi gặp bác sĩ phân tâm học, được mời khéo vào nhà
thương điên, lại tranh luận với bác sĩ phân tâm học về giá trị và giới hạn của
phân tâm học hiện đại, chỉ trích đời sống nông cạn của Mỹ quốc, sống lang thang
lây lất ở xóm nghệ sĩ Greenwich Village tại New York; đã gặp Henry Miller, tại
Pacific Palisades ở California, được Henry Miller nhận là Rimbaud lại ở thế kỷ
XX, sau đó được một văn sĩ Do thái cho tiền để trốn qua Paris không giấy tờ,
không hành lý, sống bơ phờ ở Bretagne, học văn chương tại trường đại học
Rennes, khinh bỉ giáo sư, rồi lại bỏ đi và sống lang thang lây lất khắp hang
cùng ngỏ hẻm ở Paris, làm clochard đi ăn mày, ngủ dưới cầu, ngủ trên vỉa hè,
đói lạnh long đong và bỏ làm luận án tiến sĩ tại Pháp, được Henry Miller gửi tiền
nuôi sống và được Henry Miller cho tiền rời bỏ Paris để sống lang thang giang hồ
tại Thụy sĩ, Ý Đại Lợi, Ba Tư, Hy Lạp,Thái Lan, vân vân. Lúc ở Paris thì nhập bọn
với nhóm nghệ sĩ trẻ ở Popoff, la cà vất vưởng ở xóm Saint Séverin và Saint
Germain des Prés, đã gặp Krishnamurti hai lần tại Square Rapp. Hiện đang sống
chờ đợi điên và chờ đợi chết, triệt để đứng ngoài tất cả ý thức hệ chính trị, đứng
ngoài mọi sự tranh chấp tôn giáo, khinh bỉ tất cả văn hóa nhân loại, thù ghét tất
cả mọi tổ chức xã hội, vô cùng kiêu hãnh, chỉ đi một mình và tự nhận là thiên
tài độc nhất của Việt Nam.
Thật đúng với những gì tôi đã cảm nhận từ đoạn văn trên,
Phạm Công Thiện - hay hậu thân của Rimbaud - là người nổi tiếng
có lời nói hành vi cực kỳ quá khích ở Nam Việt Nam nửa sau thập niên 1960.
Không chừng chính từ mấy câu tự giới thiệu này mà ông bị mang ấn tượng phải
chăng đây chỉ là một nhân vật ma mãnh tự xưng thiên tài, rồi thì
nói năng ba hoa, liều lĩnh chống đối quyền uy. Có điều, tất cả không gì khác
ngoài ngộ nhận.
Từ thủa thiếu thời Phạm Công Thiện đã đọc thông hiểu một
lượng khổng lồ sách vở cổ kim Đông Tây bằng nguyên ngữ, và có dáng vẻ bác học đến
nỗi người trong thiên hạ phải gọi là thần đồng, là thiên
tài. Nhưng đâu chỉ dừng lại ở bấy nhiêu đó. Ông còn đấu tay đôi với tư tưởng
của Nietzsche, Heidegger, Henry Miller, Suzuki Daisetz, Long Thụ; ông lại mạo
hiểm phá hoại nền tảng suy tư siêu hình học Tây phương – nơi khởi nguồn của chiến
tranh cận đại cũng như phân tâm học; ở chỗ tận cùng của ý thức và tồn tại ông tìm
thấy tư tưởng hố thẳm cần phải đối chọi với địa ngục (naraka)
của thời đại chính là chiến tranh Việt Nam. Hơn nữa, giống như Henry Miller, sự
minh tuệ của ông luôn gắn liền với đời người. Ông không bị cầm tù trong ‘vọng
niệm’ như là ‘thường thức’ và ‘tập quán’ - những thứ do thế giới ngôn ngữ hiện
tại tạo ra đã trói buộc đời sống con người, ông đốt cháy đời sống tự do của
mình, ông sống y nguyên như vốn có. Đoạn tự giới thiệu trên đã bày tỏ chân thật
điều đó.
Như chính ông cũng đã ý thức được bản thân “chỉ đi một
mình”, trong lòng thét gào rất chính trực và cực cùng cô độc bất chấp bị thế
gian cự tuyệt không chút đồng cảm. Vậy thì cái tư tưởng đó thật sự là như thế
nào? Bắt đầu từ đây, tôi sẽ đuổi theo quỹ đạo của ngôi sao băng này.
Cấu thành của sách
Đoạn văn tự giới thiệu của Phạm Công Thiện dừng lại ở những
ghi chép cho đến giữa tuổi hai mươi khi tập thơ được xuất bản, nhưng ở Chương Mở
đầu, một lần nữa, tôi sẽ hết sức tóm tắt theo trình tự thời gian và muốn giới
thiệu thật đơn giản về cuộc đời phiêu bạt từ lúc mới sinh cho đến tận hiện tại
của ông(5), chủ yếu dựa trên những gì ông đã viết trong các trước
tác của mình.
Chương Mở đầu giới thiệu cuộc đời ông đầy những thăng trầm,
chỉ bấy nhiêu đó cũng thú vị lắm rồi, nhưng điểm mấu chốt của sách này nói
chung không gì ngoài đương đầu với sự khó hiểu, và làm sáng tỏ tư tưởng của ông
mà hầu như đã không được đặt thành vấn đề đích đáng. Có điều, chính vì tư tưởng
của ông triển khai trên tiền đề là phải thông bác từng chữ Đông Tây kim cổ, vì
thế nếu không có một tri thức tiền đề cỡ đó thì chắc chắn sẽ cảm thấy khó hiểu.
Hơn nữa thuật ngữ mà ông sử dụng, ví dụ như thuật ngữ chủ yếu là Tính chẳng
hạn, thoạt nhìn có vẻ đơn thuần nhưng thực ra bên trong ẩn chứa ý nghĩa độc đáo
hoàn toàn khác với thông thường. Sẽ rất khó thâm nhập vào tư tưởng của ông nếu
như không hiểu được những thuật ngữ như vậy có ý nghĩa ra sao, dù xét trên bề mặt
hay xét về hình thức đi nữa, cho nên ngay từ đầu nhất thiết phải nát óc với những
thuật ngữ độc đáo của ông coi chúng mang ý nghĩa là gì. Vì thế, Chương Một sẽ lấy
vấn đề ‘ông đã suy nghĩ về chiến tranh Việt Nam như thế nào’ làm manh mối để giải
thích về ý nghĩa của thuật ngữ chủ yếu Tính mà ông sử dụng.
Sau đó, sẽ khảo sát xoay quanh sự lãnh hội của ông về ‘tư tưởng Heidegger’ và
‘Thiền’– là hai thứ đã làm tiền đề nghĩ ra thuật ngữ đó.
Chương Hai lấy trục chính là thuật ngữ Tính và Việt,
tôi chọn ra Im lặng Hố thẳm tác phẩm đại biểu của nửa sau thập
niên 1960 đã đề xuất tư tưởng Việt Nam độc đáo ở thời đại chiến
tranh Việt Nam, và cố gắng đọc hiểu trước tác nan giải này. Ngoài Tính và Việt vừa
nói, còn tiến hành khảo sát chú trọng vào những cụm từ hay danh từ riêng mà tôi
cho là tối quan trọng trong trước tác này như Im lặng Hố thẳm cũng
là tên của trước tác; như Dịch hoá pháp – chữ mà Phạm Công Thiện
chọn làm dịch ngữ cho ‘Dialektik’ của Long Thụ đối kháng lại Biện chứng
pháp; và như Không Lộ – cũng là tên của một Thiền sư Việt
Nam thời xưa. Ngoài ra, từ Chương Hai trở đi sẽ tích cực sử dụng Lý luận Phân
tiết Ý nghĩa Ngôn ngữ của Giáo sư Izutsu Toshihiko để cố gắng làm rõ ràng thêm
về ‘tư tưởng của Phạm Công Thiện đã coi thuật ngữ Tính đóng
vai trò trung tâm’.
Chương Ba sẽ luận về, ‘tính liên quan tư tưởng giữa Henry
Miller, Heidegger và Phật giáo mà Phạm Công Thiện đã tìm ra’, và, ‘sự hình
thành tư tưởng độc đáo của Phạm Công Thiện khởi từ đó’. Cụ thể trước hết, liên
quan đến Thư ngỏ gửi Henry Miller tố cáo trạng huống chiến
tranh Việt Nam, sẽ khảo sát về vấn đề nguyên do tại sao Phạm Công Thiện đã hỏi
Miller câu hỏi tồn tại luận còn nặng ảnh hưởng của Heidegger. Tiếp theo, căn cứ
trên tư tưởng của Heidegger và Miller mà truy tìm chân ý của mệnh đề táo
bạo của Phạm Công Thiện Sein của Heidegger chính là Cunt của Miller.
Rồi khảo sát tư tưởng Việt Nam của Cái và Con – mà Phạm Công
Thiện đã đề xướng – nghĩa là như thế nào, dĩ nhiên có liên quan mật thiết đến ý
nghĩa của mệnh đề trên, nhưng ở đây ông đã lựa chọn Cái và Con gần
gũi hơn trong tiếng Việt.
Từ những khảo sát về tư tưởng của Phạm Công Thiện cho đến
đây, Chương Bốn chuyển sang khảo sát đặt trọng điểm vào sáng tác của ông. Tôi sẽ
chọn ra những sáng tác cụ thể của ông – người coi mình không phải tư tưởng gia
cũng chẳng phải triết gia mà là một thi sĩ, và suy nghĩ xem có thể tìm thấy tư
tưởng gì ở đó, thêm thay đối với ông thơ và nhà thơ mang
ý nghĩa gì? Trước hết, Phạm Công Thiện là người đã phê phán Siêu hình học Tây
phương như là nguyên nhân căn bản của chiến tranh Việt nam, như vậy ông đối chọi
như thế nào đối với Tự ngã cận đại được hình thành ở nửa đầu thế kỷ XX trong
văn học Việt Nam thông qua thuộc địa hóa của thực dân Pháp, đó là ‘khảo sát
phương diện phá hoại trong tác phẩm của ông’ đặt trọng tâm vào tác phẩm Mặt
trời không bao giờ có thực. Kế tiếp, Phạm Công Thiện đã lý giải như thế nào
về mối quan hệ giữa làm thơ và quê hương để rồi biến nó thành tác phẩm, đó là
‘khảo sát phương diện sáng tạo trong tác phẩm của ông’. Rồi ngược về tận nguồn
cơn làm thơ mà đối với ông được gọi là Thơ hay Nguồn
Trong Trẻo viết hoa, để từ đó nhìn xem thi nhân làm thơ và tư tưởng về
quê hương như thế nào bằng tiếng mẹ đẻ, nhờ đó mới suy nghĩ về quan hệ tính căn
nguyên của ‘ngôn ngữ’, ‘thế giới’ và ‘thi nhân’.
Ở Chương Kết thúc sẽ nhìn lại những khảo sát từ đầu, chỉ
ra cho thấy bước đi của cuộc đời Phạm Công Thiện, là bước đi hướng về chỗ
đồng nhất – hiện đang tiềm phục có thể siêu việt thời đại cũng như hai
bờ Đông - Tây, nó hình như được đánh dấu nghĩa là Tâm cũng
là Nguồn Trong Trẻo; và là sự mạo hiểm mà con người hiện đại hướng
về chỗ bên trong bản thân mình vẫn đang chưa biết.
NOHIRA MUNEHIRO
NGUYỄN TIÊN
YÊN dịch
____________________
(1) Trần Tuấn Kiệt đã viết như sau về mối quan hệ giữa
trước tác của Phạm Công Thiện với giới trẻ trong chiến tranh Việt Nam. “Ý thức
Bùng Vỡ, Ý thức Mới đầy phẫn nộ, cuồng bạo của Phạm công
Thiện được tuổi trẻ đón nhận ồ ạt, ấy cũng vì tâm hồn người trai trẻ trong sóng
gió muốn nương vào chiếc bè gỗ trên sóng gió mà đỡ bớt chới với trong Mê cung địa
ngục.” (Trần Tuấn Kiệt, Tác giả tác phẩm, Đời sống và tác phẩm các
văn nghệ sĩ Việt Nam, Sài Gòn, 1973, tr. 26–27).
(2) Lời mô tả Phạm Công Thiện của thi sĩ Thanh Tâm
Tuyền. Nhà văn Mai Thảo ghi như sau trong hồi tưởng của ông:
“Tôi nhớ bấy giờ là cuối
năm 1970. Phạm Công Thiện, trong tư cách Khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh,
lên đường đi Âu châu dự một hội nghị đại học quốc tế rồi đi luôn không bao giờ
còn trở về Việt Nam nữa. Hết thảy chúng tôi đều sững sờ, khó hiểu. Riêng Thanh
Tâm Tuyền không. Bảo tôi: “Anh phải nhìn thấy sớm muộn rồi Phạm Công Thiện cũng
phải một lần bỏ đi như thế, đi hẳn thật xa, mất tích. Có như vậy mới đúng là Phạm
Công Thiện. Chúng ta ít nhiều là những định tinh. Hắn hơn là một hành tinh. Hắn
là một ngôi sao băng”.
(Mai Thảo, Chân
dung: mười lăm nhà văn nhà thơ Việt Nam, Văn Khoa xuất bản, California,
1985, tr. 146–147).
(3) Hiện tại trên homepage talawas –
một diễn đàn văn hóa tư tưởng nghệ thuật của Việt Nam hiện đại do nhà văn Phạm
Thị Hoài sống ở Đức chủ trương, có đăng tải một số tác phẩm xuất bản trước đây
tại Nam Việt Nam của Phạm Công Thiện như Ý thức mới trong Văn nghệ và
Triết học, Mặt trời Không bao giờ Có Thực, Hố thẳm Tư
tưởng, Im lặng Hố thẳm, các bản dịch Heidegger Triết lý
là gì?, Về Thể tính của Chân lý đã được số hóa từ năm
2006. Có thể duyệt xem tại địa chỉ http://www.talawas.org/.
(4) (nd) Tác giả bỏ sót không dịch câu này.
(5) (nd) Chú ý hiện tại ở đây là
tính đến thời điểm sách này được xuất bản vào tháng 6 năm 2009, tức khoảng 2
năm trước khi Phạm Công Thiện qua đời tại Mỹ.
Nguồn: NVTPHCM