Nhà văn Nguyễn Mộng Giác và bộ tiểu
thuyết Sông Côn mùa lũ
Cái nhìn mới mẻ táo bạo về người anh hùng áo vải
Lịch sử Việt
Nam có không ít những nhân vật lớn với tầm vóc tạo dựng thời đại mà cuộc đời của
họ tự nó đã là những pho tiểu thuyết. Song rất tiếc, cho đến nay tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam mới chỉ dừng lại ở sự khai thác có tính chất minh hoạ lịch
sử về một vài giai đoạn và một số khía cạnh của những nhân cách văn hoá lớn
này. Rất hiếm tác phẩm tái hiện các anh hùng dân tộc một cách toàn diện, từ góc
nhìn nhân văn và thế sự, tái tạo lại quá trình hình thành và sự toả rạng của những
nhân cách lớn này, trong khuôn khổ một thời đại lịch sử, càng rất hiếm tác phẩm
trình bày họ như là những nhân cách
văn hoá Việt Nam vừa gần gũi, bình dị, vừa hấp dẫn, cao siêu .
Trong bối cảnh đó, bộ trường thiên tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ trên 2000 trang của nhà
văn Nguyễn Mộng Giác, Việt kiều Mỹ, được NXB Văn học Hà Nội tái bản năm 1998 đã
trở thành một sự kiện văn học đáng kể vì đem đến cho người đọc một bức tranh
hoành tráng về thời đại Tây Sơn, trên đó nổi bật lên hình ảnh người anh hùng dân tộc Quang Trung như một nhân cách
văn hoá lớn , có sự cuốn hút trí thức đương thời, một nhân cách bắt rễ sâu vào
trong từng số phận bé nhỏ của đời sống và vươn tới tầm vóc tạo dựng thời đại.
Người anh hùng
Nguyễn Huệ bấy lâu vẫn định hình trong chính sử và dã sử như một người nông dân áo vải cờ đào mà cái ấn
tượng về cốt cách nông dân võ biền, mạnh mẽ của ông đã in đậm trong tâm
thức số đông như một ấn tượng lịch sử. Người ta đã quen coi Nguyễn Huệ như một hình ảnh tượng trưng cho những người nông dân chân đất, quật
cường, dũng mãnh, song dường
như cái khí phách anh hùng ấy không thể có chung nguồn mạch với văn hoá Nho
giáo nói riêng và tư duy bác học nói chung. Nếu như trong Phẩm tiết, Nguyên Huy Thiệp đã khai thác cái
ấn tượng võ biền này để tạo dựng
một Quang Trung thế tục, sàm sỡ và cao ngạo đế vương thường gây tranh cãi, thì
trong Sông Côn mùa lũ Nguyễn Mộng
Giác đã cãi lại định kiến văn hóa này khi trình bày Nguyễn Huệ như một nhân cách trí thức hấp thụ các tinh hoa văn
hoá bác học qua một ông đồ là giáo Hiến, tiếp thu các đạo lý từ Nho
giáo, và từ nhiều nguồn khác để trở thành nhân vật anh hùng.
Theo dõi quá trình hình thành nhân cách này ta thấy rõ bản
lĩnh của Nguyễn Huệ không phải đơn thuần là sự thăng hoa của bản năng giải
phóng trong con người nông dân, mà là sự tự khẳng định có ý thức của một nhân
cách văn hoá mới trong thời đại ấy. Do đó sức mạnh của người anh hùng Nguyễn Huệ
không phải là quyền lực hoang dã của bạo chúa. Chính cốt cách văn hoá, bản chất
trí thức này đã tạo cho nhân vật Nguyễn Huệ trong tiểu thuyết của Nguyễn Mộng
Giác có một sức hấp dẫn lôi cuốn trí thức đương thời.
Nguyễn Mộng Giác đã rất tinh tế và cao tay khi trình bày
quá trình vừa hút vừa đẩy của Quang Trung với Nho giáo nói chung và các sĩ phu
Bắc Hà nói riêng. Hấp thụ đạo Nho từ thuở ấu thơ, Nguyễn Huệ trong tiểu thuyết
của Nguyễn Mộng Giác đã vượt lên đạo
Nho, tìm thấy trong đời thường và trong lịch sử cái lý lẽ phê phán những
hạn chế của đạo Nho và những hủ nho trong đó có giáo Hiến thầy mình. Tuy đánh
giá thấp tầm vóc và bản lĩnh văn hoá của những tri thức đương thời, nhiều lúc
giận họ, căm thù họ, cảm thấy bất lực trước sự bảo thủ và gàn dở của họ, thậm chí có lúc định giết họ, nhưng Nguyễn
Huệ vẫn không nản trí trong việc tìm đến họ, tha thiết lôi họ vào dòng
chảy thác lũ của khởi nghĩa nông dân.
Chính cái nhìn mới, cái nhìn giải phóng, cái nhìn tạo dựng
thời đại của Nguyễn Huệ toả ra từ nhân cách văn hóa rất Việt Nam của ông đã tạo
cho ông một sức hấp dẫn có thể lôi kéo những trí thức lớn đương thời đi theo
phong trào Tây Sơn. Thành công lớn của
Nguyễn Mộng Giác là đã trình bày thuyết phục và nhuần nhuyễn sức hấp dẫn
văn hoá của người anh hùng nông dân Nguyễn Huệ, thách thức những định kiến lịch
sử. Đó là một góc nhìn rất mới mẻ và táo bạo của nhà văn với nhân vật lịch sử độc
đáo, phức tạp này.
Nội soi nhân cách
văn hóa người anh hùng Nguyễn Huệ
Khi trình bày, tái hiện, lý giải các mối quan hệ trí thức
nông dân trong lịch sử và giữa các nhân vật lịch sử, các nhà văn xưa nay thường
nhìn các sự kiện qua lăng kính của thân phận người trí thức với những bi kịch,
éo le và giằng xé của họ trong sự hợp tác với lãnh tụ nhân dân. Chẳng hạn, tiểu
thuyết Vạn Xuân (Dix mille printemps)
của nhà văn Pháp Yveline Feray và các tác phẩm văn học, sân khấu khác về Nguyễn
Trãi đã khai thác bi kịch của người
tri thức có công trong bối cảnh hậu chiến thời Lê.
Cách nhìn
phổ biến trong các tác phẩm này là trình bày một đối trọng tri thức bạo chúa,
văn hoá quyền lực, kẻ sĩ nông dân trong một ý nghĩa nào đó thì đối trọng này là
một tương quan có ý nghĩa và
thuyết phục. Nhưng dường như văn hoá
Việt Nam có độ nhoè, độ dính kết, độ dung hoà giao thoa và cộng sinh giữa cái
thái cực đã tạo ra những quan hệ phức tạp, đa tầng và đa sắc hơn giữa những
thế lực và những quan điểm trong tiến trình lịch sử. Vì thế, cái nhìn phân tuyến
lưỡng cực, đối trọng theo tinh thần
duy lý cổ điển phương Tây và cách sử dụng lăng kính tri thức nhìn một xã
hội nông dân, một trật tự nông dân sẽ có nguy cơ bất cập.
Nguyễn Mộng
Giác có bản lĩnh sáng tạo tránh được công thức có tính định kiến và áp đặt này.
Tác giả di chuyển người tri thức từ vị trí đứng ngoài bổ sung, đối trọng và đối
lập với người nông dân vào bên trong cấu trúc nhân cách của người anh hùng Nguyễn
Huệ, để nội soi người anh hùng này, khám phá những mâu thuẫn, những giằng xé,
những gắn kết, những cộng sinh lai tạp trong quá trình lịch sử và tâm
lý, tìm ra mã số văn hoá thống nhất trong nhân cách lãnh tụ khởi nghĩa nông
dân. Và việc lồng trí thức vào nông dân, lồng con người thế tục vào con người huyền thoại, lồng con
người tình nghĩa vào con người
quyền lực, lồng cái nhìn nhân bản vào cái nhìn chính trị, lồng dã sử,
huyền sử vào chính sử đó là cái cơ
chế sáng tạo nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ của Nguyễn Mộng Giác trong Sông Côn mùa lũ.
Ta thấy rõ
và cảm thông với sự song tồn, đồng tồn, tương hợp trong con người Nguyễn Huệ một
học trò giỏi cuả Nho học và một người
phê phán Nho học, một người tôn trọng đạo lý tình nghĩa và một lãnh tụ
quyền biến thao lược dám làm những
việc cần làm (như dấy binh đánh lại Nguyễn Nhạc anh mình), một người bạn, người tình, người học trò thuỷ chung, ân nghĩa và
một bản lĩnh anh hùng dám đạp đổ cả triều đình để dành lấy giang sơn. Sự dung hoà, giao thoa, cộng sinh giữa
các mặt đối lập trong nhân cách Nguyễn Huệ phản ánh biện chứng văn hoá hỗn dung
của người Việt, làm nên tính cách Việt Nam của nhân vật Quang Trung trong bộ tiểu
thuyết lịch sử của Nguyễn Mộng Giác, khiến nhân vật này mang sinh động và đầy tính nhân bản khác hẳn
với Nguyễn Huệ trong Hoàng Lê nhất thống
chí của Ngô Gia văn phái và cũng khác về cốt cách văn hoá với Pie đại đế
trong tiểu thuyết Nga.
Trên cơ sở cấu
trúc nhân cách văn hoá của Nguyễn Huệ, Nguyễn Mộng Giác đã gắn kết các tư liệu lịch sử với chiều sâu nhân bản
trong đời sống tâm lý, thế tục của nhân vật được hư cấu một cách tỉ mỉ
và sinh động. Ngay từ khi Nguyễn Huệ còn là cậu học trò, Nguyễn Mộng Giác đã để
cho người bạn gái của ông là cô An cảm nhận được cái áp lực văn hoá trong nhân
cách anh hùng bộc lộ qua từng câu nói đùa, từng ánh mắt giễu cợt và cử chỉ đời
thường rất hồn nhiên vô tâm. Khi Nguyễn Huệ trở thành bậc vương tướng, Nguyễn Mộng Giác lại để cho cô An có
lúc cảm nhận được sự gần gũi, ấm áp của một người bạn cũ thời thơ ấu và để cho
Nguyễn Huệ sống trong trạng thái cô đơn khi quyết định tiến hành nội chiến với
chính người anh của mình.
Những nhân cách
văn hoá trong đời thường
Nguyên lý văn hoá lưỡng hợp, hỗn dung đặc trưng của dân tộc
Việt dường như đã trở thành miếng đất màu mỡ cho tư duy nghệ thuật của người viết tiểu thuyết lịch sử,
kết hợp nhuần nhuyễn chính sử, dã sử và huyền sử với tưởng tượng, hư cấu và khai thác chiều sâu tâm lý
để sáng tạo ra những nhân vật nhiều chiều chập chờn giữa huyền thoại và giải
huyền thoại, giữa đời thường và lịch sử, giữa sứ mệnh và tự do, giữa quyền lực
và nhân tính. Nguyễn Huệ trong Sông Côn mùa lũ là một nhân vật tiểu thyết như vậy, một nhân vật mang tính ám ảnh của
văn hoá Việt Nam với tất cả những mâu thuẫn, giằng xé giữa con người nhân bản
và con người chính trị như nhà lý luận Nguyễn Hữu Lê đã chỉ ra khi bàn về
đặc tính đối thoại và giao tiếp của tư duy nghệ thuật.
Nhân vật cô
An, người bạn gái của Nguyễn Huệ cũng là một tham số văn hóa gia tăng tính lưỡng
hợp, hỗn dung của văn hoá Việt trong thế giới các nhân vật tiểu thuyết của Sông
Côn mùa lũ. An dường như là hiện thân của những con người bé nhỏ bị bóng đè
trong lịch sử, trong trường hợp cụ thể của An, cô bị bóng người anh hùng áo vải
Nguyễn Huệ ám ảnh suốt cuộc đời. Nguyễn Huệ từng gần gũi An như một người yêu
trong tâm tưởng, đã gieo vào An những kỷ niệm, những ấn tượng, đã giễu cợt những khao khát trần thế
nhỏ bé của cô rồi lại cưu mang cô
trong những bối rối của đời thường để cuối cùng cô vừa bị lịch sử cuốn mất người
yêu có nhân cách lớn lao và cướp đi cả những hạnh phúc đời thường bé nhỏ.
Một thân phận
chung chiêng giữa cái cao cả và cái tầm thường , một người phụ nữ Việt Nam mang
nghịch lý của số phận thân nhân vô danh bị giằng xé giữa khát vọng lịch
sử văn hoá lớn lao và thực tế thấp hèn, dở dang, tội nghiệp. Những kỷ niệm về
Nguyễn Huệ lướt qua cuộc đời An như
đưôi sao chổi quệt vào một hành tinh bé nhỏ làm đổ vỡ sâu sắc cuộc đời cô.
Trong số phận An có chất chứa cả những điều éo le kỳ thú của số phận nhân dân,
cả những đức hạnh, những guằng xé của người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử.
Không phải ngẫu
nhiên, Nguyễn Mộng Giác kết thúc bộ trường thiên tiểu thuyết bằng hình ảnh
cô con gái An lần đầu hành kinh. Cái kết ấy gợi lại hình ảnh người thiếu nữ An xưa kia lúc mới gặp Nguyễn Huệ,
trong ngày đầu hành kinh đã hốt hoảng lo âu trước nhịp sống thường tình của người phụ nữ. Và, ta không khỏi suy nghĩ,
cái nhịp sống thường tình ấy thực ra từ lâu không còn thường tình nữa, đó là thời điểm đáng báo động
mà người phụ nữ phải đơn côi đối diện
và đối thoại cùng những biến động kỳ vĩ của lịch sử, những hốt hoảng âu lo ngây
thơ kia chính là tiên cảm, là linh giác của đời người phụ nữ luôn luôn sợ hãi
lo âu vì bị bóng của những nhân cách siêu việt do chính mình góp phần bé nhỏ
tác thành đè nặng suốt đời. Liệu có một người anh hùng nào sẽ đến phủ bóng lên
cuộc đời cô gái con An? Những thân phận bình thường được nhấn trở thành một tín hiệu nghệ thuật có sức ám ảnh nâng cảm nhận
của người đọc lên tầm suy tư triết học và văn hoá.
Bên cạnh An,
những con người bé nhỏ bình thường khác trong Sông Côn mùa lũ
như giáo Hiến, Lãng, Chinh, Thọ Hương... cũng có những cái riêng để đi vào lịch sử, tham dự vào nhân cách
văn hoá của Nguyễn Huệ ở những mức độ khác nhau. Trong tương quan lịch sử, họ
là những “mẫu số chung tầm thường”, một hai trong muôn ngàn, nhưng trong tương
quan văn hoá là thế sự, họ cũng in dấu ấn vào nhân cách anh hùng trong một chuỗi
những sự kiện, hành vi tưởng như bé nhỏ, thường tình vô nghĩa và bằng
cách đó họ góp phần bộc lộ và khám phá những chiều kích nhân bản khác nhau
trong nhân cách dân tộc và nhân cách anh hùng dân tộc.
Khác với những cây bút tiểu thuyết thường khai thác hành vi lịch sử của quần chúng như
là những lực lượng cơ bắp, Nguyễn Mộng Giác xây dựng những con người bé nhỏ như
những nhân cách văn hoá trong đời thường góp phần đan dệt và phản chiếu nhân
cách văn hoá của người anh hùng áo vải Quang Trung. Họ đều là những nhân vật nhạy
cảm văn hoá, sống thường trực trong tư cách nhân chứng văn hoá trước dòng
chảy lạnh lùng và khốc liệt của lịch sử để đón nhận và lưu giữ những ấn tượng sâu sắc từ mỗi sự kiện, mỗi
hành vi, mỗi xao động nhỏ trong dòng chảy ào ạt tàn nhẫn ấy.
Trước khi là nạn
nhân của sự quên lãng, vô tâm và phản bội thường thấy trong lịch sử, những con người bé nhỏ này ngày ngày là nạn
nhân của nhân tính bén nhạy trong mình, để rồi như An và Lãng bị choáng
váng ám ảnh mãi bởi một vụ nghĩa quân hành quyết một người vô tội nhằm trấn an người Thượng sau vụ tranh
chấp muối, hay như ông giáo Hiến nổi giận đánh con trai là Chinh khi thấy anh
xách xâu tai người về như một dấu hiệu của thái độ say sưa bạo lực...
Lịch sử được
tái hiện qua biết bao sự kiện hành vi thế sự, mỗi sự kiện nhỏ lại được nhà văn
khai thác sâu những vang dội của nó vào thế giới nhân tính, trở thành những tín
hiệu tâm linh, văn hóa. Sự kiện lịch sử chỉ như một thứ thẻ căn cước để Nguyễn
Mộng Giác đi vào thế giới nhân tính thâm u, khuất khúc, thăm thẳm trong từng
nhân vật mà thăm dò những ấn tượng tâm lý, những xáo động nhân bản, những nhức nhối nhân văn, những
khắc khoải văn hoá vừa dữ dội vừa tinh tế. Và cái tinh thần văn hoá nhất quán
trong những nhân vật này là tinh thần văn hoá Việt nam đầy nhân bản, đầy mặc cảm
thân phận, nặng tình, trọng nghĩa, ân oán rạch ròi và ngôn thứ phân minh.
Cái nhìn xuyên suốt bộ trường thiên tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ là cái nhìn văn hoá, là sự
khám phá, lý giải kết nối chuỗi nhân cách văn hoá từ thường nhân đến vĩ nhân
làm nên một dòng chảy văn hoá tâm linh nhất quán qua từng trang sách. Dòng chảy
văn hóa đó là sự hoà quyện của logic lịch sử, lôgic đời sống và lôgic nghệ thuật
trong dung môi văn hoá Việt Nam đầy tính nhân bản, lưỡng hợp hỗn dung. Đó chính
là mã số của sức mạnh Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam.
Sông Côn mùa lũ
được sáng tác ở Việt Nam từ năm 1977 đến 1981, xuất bản lần đầu ở Hoa Kỳ năm
1990. Có lẽ cách nhìn nghệ thuật vừa táo bạo, trí tuệ, vừa sâu sắc và nhân bản
của tác giả Nguyễn Mộng Giác - một cách nhìn tôn vinh văn hoá Việt Nam, gợi ra
những vấn đề day dứt, nhức nhối về quan hệ quần chúng và lãnh tụ, cá nhân và lịch
sử đã khiến cho bộ trường thiên tiểu
thuyết Sông Côn mùa lũ được độc giả
trong nước đón nhận trân trọng và nồng nhiệt. Bài viết này không có tham vọng
giới thiệu toàn diện bộ sách đồ sộ công phu này mà chỉ gợi ý một mã số,
một lối vào tác phẩm để bạn đọc tham khảo và tự mình thẩm định.
ĐỖ MINH TUẤN
Theo VHNA