1. Những năm gần
đây, đời sống văn học Việt Nam chứng kiến sự trỗi dậy của ý thức phê
bình, khi những cuốn sách từ nghiên cứu, giới thiệu lí thuyết đến phê bình thực
hành ứng dụng liên tục được công bố, từ của người già đến của người trẻ, từ của
những tên tuổi quen thuộc đến của những tên tuổi mới mẻ, từ của tác giả trong nước đến của tác giả hải ngoại, từ của nhà
phê bình đến của nhà sáng tác, từ của một tác giả đến của nhiều tác giả…
Chỉ tính riêng hai năm 2017 - 2018, đã có hàng chục đầu sách nghiên cứu phê
bình văn học được trình xuất, như:
Cách tân nghệ thuật văn học phương Tây (2017, Phùng Văn Tửu), Phê bình
văn học thế kỉ XX (2017, Thuỵ Khuê), Kí hiệu học văn học (2017, Lê Huy Bắc),
Văn học - người đọc - định chế (2017, Hoàng Phong Tuấn), Đến với thơ đương đại
(2017, Hà Quảng), Luận chiến văn chương (quyển bốn, 2017, Chu Giang), Lí luận -
phê bình văn học: một góc nhìn mới (2017, Cao Thị Hồng), Rừng khô, suối cạn, biển
độc… và văn chương (2017, Nguyễn Thị Tịnh Thy), Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ
XXI - lạ hoá một cuộc chơi (2017, Thái Phan Vàng Anh), Giới hạn của những huyền
thoại (2017, Nguyễn Thanh Tâm), Phiêu lưu chữ (2017, Hoàng Đăng Khoa), Bóng người trong bóng núi (2017, Lê Thành
Nghị), Cuộc phiêu lưu của chữ (2017, Huỳnh Thị Thu Hậu), Những ô cửa nhìn
ra vườn văn (2017, Chế Diễm Trâm),
Đi tìm những giấc mơ (2017,
Trần Hoàng Thiên Kim), Những thế giới song song (2017, Phùng Ngọc Kiên), Di sản
văn học lãng mạn - những cách đọc khác (2017, nhiều tác giả, Hoàng Tố
Mai chủ biên), Ngày sống đời thơ (2017, Lê Minh Quốc), Hoa rơi hữu ý (2017, Lê Thiếu Nhơn), Phê bình sinh thái là gì? (2017, nhiều
tác giả, Hoàng Tố Mai chủ biên), Franz Kafka - người tẩy não nhân loại (2018, Lê Huy Bắc),
Phê bình kí hiệu học - đọc văn như là hành trình tái thiết ngôn ngữ (2018, Lã
Nguyên), Phê bình sinh thái với văn xuôi Nam Bộ (2018, nhiều tác giả, Bùi Thanh
Truyền chủ biên), Bí mật tuổi trăng non (2018, Thanh Tâm Nguyễn), Song hành
& đối thoại (2018, Hoàng Đăng Khoa), Như cánh chim trong mắt của chân trời
(2018, Văn Thành Lê), Tiểu sử học - những nguyên tắc thực hành (2018, Phạm Văn
Quang), Văn xuôi hiện đại - khảo cứu và suy ngẫm (2018, Lê Tú Anh), An trú miền
đọc (2018, Mai Thị Liên Giang)...
Phải liệt kê tương đối đầy đủ như vậy để thấy rằng, nghiên cứu phê bình ở ta hiện
nay không hề “mỏng”, “vắng bóng”… Đó là chưa kể hàng loạt đề tài khoa học về văn chương các cấp được nghiệm thu, hàng
loạt luận văn, luận án văn học được thẩm định hàng năm, nhiều kỉ yếu hội nghị,
hội thảo, toạ đàm về văn chương được công bố, hàng loạt bài nghiên cứu phê bình
văn học liên tục được cập nhật, đăng tải trên các báo, tạp chí từ Trung ương đến địa phương…
Chưa bao giờ
như bây giờ, mỗi nhà sáng tác cũng có thể đồng thời là một nhà phê bình,
qua cách họ viết về chân dung bạn văn, viết về sách mới của đồng nghiệp, nói về
tác phẩm của mình, bàn về vấn đề thời sự của văn học… Chưa bao giờ như bây giờ,
mỗi người đọc, ở một mức độ nào đó, cũng là một nhà phê bình, qua cách họ viết
status hay comment trên facebook, về một vấn đề, hiện tượng văn học. Một số người
nổi tiếng ở các lĩnh vực khác, tưởng như “ngoại đạo” với văn chương, nhưng thảng
hoặc mang đến những bất ngờ thú vị khi cất tiếng về văn chương, như đạo diễn
Nguyễn Hoàng Điệp, hoạ sĩ Lê Thiết Cương…, và đặc biệt là đạo diễn Đỗ Minh Tuấn. Có nghĩa là đã qua rồi
thời mà ý thức, trình độ lí luận phê bình ở ta “mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”, người sáng tác thì viết bản
năng ăn may, còn người đọc thì
đọc chủ quan cảm tính. Có nghĩa là, ở cộng đồng văn chương hôm nay, không chỉ
người làm nghiên cứu phê bình văn học mà cả người sáng tác lẫn người đọc văn chương đều tự trang bị cho mình một
phông lí luận phê bình nhất định.
Chưa bao giờ các lí thuyết văn chương hiện đại trên thế
giới được cập nhật, giới thiệu khá đầy đủ, có hệ thống ở Việt Nam như bây giờ,
từ thi pháp học, tự sự học, phân tâm học, lí thuyết tiếp nhận đến lí thuyết trò
chơi, lí thuyết hậu hiện đại, lí
thuyết diễn ngôn, lí thuyết sinh thái, lí thuyết liên văn bản, lí thuyết hậu thực
dân, lí thuyết nữ quyền… Chưa bao giờ các hội nghị, hội thảo, toạ đàm về văn học
nói chung do các viện nghiên cứu, các trường đại học trên cả nước tổ chức, hay
về lí luận phê bình văn học nói riêng do Hội đồng Lí luận phê bình văn học
nghệ thuật Trung ương, Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức… lại diễn ra quy mô, thường
xuyên như bây giờ. Công tác xét đầu
tư, hỗ trợ, xét giải thưởng, tặng thưởng tác phẩm lí luận phê bình văn học
xuất sắc của Hội đồng Lí luận phê bình văn học nghệ thuật Trung ương hay của Hội
Nhà văn Việt Nam được diễn ra hàng năm. Chưa bao giờ các trại viết dành riêng
cho các tác giả nghiên cứu phê bình văn học lại được một số cơ quan như Ủy ban
toàn quốc Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam, Tạp chí Văn nghệ Quân
đội… ưu tiên tổ chức như mấy năm trở
lại đây.
Một bằng chứng
cho thấy rõ nghiên cứu phê bình văn học ở ta hôm nay không “yếu”, đang
khẳng định sự hiện diện của mình trong đời sống văn học, đó là năm 2017, Giải
thưởng Hội Nhà văn Việt Nam “mất mùa” cả thơ lẫn văn xuôi, trong khi có đến hai tác phẩm lí luận phê bình được
vinh danh: Bóng người trong bóng núi của Lê Thành Nghị và Cách tân nghệ thuật
văn học phương Tây của Phùng Văn Tửu; cũng vậy, Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội
để trống tác phẩm ở hạng mục thơ, trong khi hạng mục lí luận phê bình có tên Phạm
Khải với tác phẩm Trang sách mạch đời; rồi nữa, Giải thưởng Hội Nhà văn Thành
phố Hồ Chí Minh chỉ trao giải thưởng
chính thức cho công trình lí luận phê bình Văn chương phương Nam - một
vài bổ khuyết của Võ Văn Nhơn và Nguyễn Thị Phương Thuý.
2. Tuy nhiên, bên cạnh những tín hiệu khởi sắc như vừa điểm thì tình hình nghiên cứu
phê bình văn học ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, mà những bất cập
này vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của nhau. Thứ nhất, đa phần sách nghiên cứu
phê bình được công bố thời gian gần đây hơi kinh viện, hàn lâm, “cao siêu”, chỉ
hướng đến người đọc “tinh hoa”, khó
mà “đi vào” được người đọc phổ thông. Đang có xu hướng là các tác giả nghiên cứu
phê bình khi ra sách thì “nói không” với thứ sách bị gọi là phê bình
“hàng xén”, họ muốn trình làng những chuyên luận tập trung đi sâu vào một lĩnh
vực chuyên môn hẹp, điều này vô hình trung chỉ có lợi cho thiểu số người quan tâm đến mảng chuyên môn đó, không
có lợi cho đa số bạn đọc. Bên cạnh đó là nhiều cuốn sách được xuất bản một cách
dễ dãi, tập hợp những bài viết vụn vặt tản mạn, nghèo hàm lượng chuyên môn học thuật. Thứ hai, nghiên
cứu phê bình văn học hôm nay thiếu những người thực sự là “thư kí trung thành” của hiện thực văn chương,
những người sống cùng, đi cùng với đời sống văn chương hiện thời. Nhiều công trình
đi vào nghiên cứu, giới thiệu lí thuyết, hoặc khảo cứu những hiện tượng văn học quá khứ, ít công trình
đi sâu giải phẫu những hiện tượng, thực thể văn chương tươi mới, sinh động đang
diễn ra. Do vậy, vai trò định hướng, đồng hành, đối thoại, khai phóng, dự báo…
của nghiên cứu phê bình chưa thật sự
được phát huy. Khoảng cách giữa nghiên cứu phê bình với sáng tác và tiếp
nhận chưa được rút ngắn, nếu không
muốn nói là đang có chiều hướng nới giãn. Nghiên cứu phê bình hoặc chui
vào tháp ngà hàn lâm kinh viện, hoặc cao đàm khoát luận, đao to búa lớn, nhưng
khi đời sống văn học cần các nhà nghiên cứu phê bình lên tiếng thì họ lại bặt
tiếng. Chẳng hạn, gần đây, trong khi dư luận nóng lên với cuốn tiểu thuyết Mối
chúa của Đãng Khấu (Tạ Duy Anh), hay với truyện ngắn lịch sử Bắt đầu và kết
thúc của Trần Quỳnh Nga, chỉ thấy các “thánh phán”, “thánh chửi”, “thánh biết
tuốt” lên facebook tung tác, “chém gió”, ít thấy tiếng nói “chính thức” có trọng
lượng, có sức thuyết phục cao của
các nhà nghiên cứu phê bình. Thứ ba, nghiên cứu phê bình hôm nay chưa thật sự theo kịp sáng tác. Sáng tác
đang vào thời của “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”, bề bộn, hỗn độn. Đường
biên của văn chương nói chung, của các thể loại văn chương nói riêng đang không
ngừng trương nở. Bản chất, đặc trưng đã được mặc định của văn chương
đang bị lung lay, phân rã, bị “giải cấu trúc”, “giải trung tâm”. Nghiên cứu phê
bình chưa bao quát được sự chuyển dịch,
biến đổi sâu sắc và toàn diện này của sáng tác, chưa có khả năng “lập biên bản”
đời sống văn chương, “gọi đúng tên sự thể” những hiện tượng văn chương như cách
nói của Inrasara. Mặt khác, hiện nay, diễn ngôn chính trị đang được tích lồng
sâu đậm vào diễn ngôn văn chương. Một số người viết đang nhân danh cơ chế dân
chủ, đang thừa cơ lí thuyết trò chơi để “giải thiêng” lịch sử, hạ bệ thần tượng, đạp đổ, đánh tráo giá trị.
Nhiều nhà phê bình cấp tiến tự phong lại “mượn gió bẻ măng”, hoặc là “khen nghi ngút” sáng
tác dạng này, hoặc là mượn tác phẩm làm cái cớ, phớt lờ tính biện chứng khách
quan của tác phẩm để triển khai “luận đề chính trị” của mình.
3. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác nghiên cứu
phê bình văn học ở Việt Nam hiện nay, thiết nghĩ cần tiến hành đồng bộ nhiều giải
pháp. Thứ nhất, các cơ quan chức năng quan tâm chú trọng hơn đến công tác giáo
dục, đào tạo nghiên cứu phê bình văn học, từ cho học sinh phổ thông đến cho các
sinh viên văn khoa, các học viên cao học, nghiên cứu sinh chuyên ngành văn học.
Đây là đội ngũ “nguồn”, “tiềm năng” rất đông đảo, nếu được đào tạo bài bản,
nghiêm túc, chất lượng, được “khai
thác”, “kích hoạt” đúng cách thì trong số họ sẽ trình xuất nhiều nhà
nghiên cứu phê bình sáng giá. Thứ hai, các tổ chức có thẩm quyền tập hợp đội
ngũ, có động thái “tiếp lửa” phù hợp để người làm phê bình và người có khả năng làm phê bình bung trổ hơn, dấn thân hơn, đi được dài đường hơn.
Thứ ba, ứng xử đúng mực hơn với các lí thuyết phê bình văn học; một mặt
đa dạng hoá lí thuyết, cởi mở hơn với các lí thuyết, mặt khác phản biện lí thuyết,
tỉnh táo gạn đục khơi trong lí thuyết. Thứ tư, các chương trình tập huấn, hội
nghị, hội thảo, toạ đàm về văn học nói chung, về lí luận phê bình văn học nói
riêng hướng đến tinh gọn, trọng tâm,
có chiều sâu hơn, thiết thực hơn. Thứ năm, các diễn đàn nghiên cứu phê bình,
“đất” cho nghiên cứu phê bình trên các báo, tạp chí in được nới rộng hơn, chế độ
nhuận bút cho các sách, bài viết nghiên cứu phê bình được cải thiện hơn. Thứ
sáu, đội ngũ lãnh đạo, biên tập viên mảng nghiên cứu phê bình ở các nhà xuất bản,
các toà soạn báo, tạp chí nâng tầm hơn, phát huy vai trò, tinh thần trách nhiệm của mình hơn. Thứ bảy, mỗi người làm nghiên cứu phê bình,
không ai và không gì có thể thay thế được, phải tự mình làm đầy kiến văn, phông
văn hoá, triết mĩ, trau dồi năng lực chuyên môn, lương tâm nghề nghiệp, nâng mình lên cho tương thích với nhu cầu, đòi hỏi của
thời đại.
HOÀNG PHƯỚC LỘC
Nguồn: VNQĐ