Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2019

Nhà thơ Phan Hoàng nhận giải thưởng với Bước gió truyền kỳ

Tập trường ca Bước gió truyền kỳ của nhà thơ Phan Hoàng vừa được UBND TPHCM trao Giải thưởng VHNT TP.HCM 5 năm lần thứ II.

Nếu như lần thứ I giải thưởng này chỉ trao cho văn xuôi thì lần thứ II có 3 tập thơ được vinh danh, trong đó trường ca Bước gió truyền kỳ của nhà thơ Phan Hoàng nhận giải 3 còn 2 tập thơ của hai nhà thơ Phạm Sỹ Sáu và Trần Hữu Dũng nhận giải khuyến khích.
Nhà thơ Phan Hoàng (bên trái) nhận Giải thưởng VHNT TPHCM 5 năm lần II

Điều này cũng có nghĩa Phan Hoàng là tác giả thơ đầu tiên nhận giải cao nhất của giải thưởng danh giá thành phố lớn nhất phương Nam, do một Phó Chủ tịch UBND TPHCM làm Chủ tịch Hội đồng Chung khảo với sự tham gia thẩm định của các chuyên gia VHNT đầu ngành. Kể từ khi trường ca Bước gió truyền kỳ được xuất bản đầu năm 2016 đến nay đã có mấy mươi bài viết nghiên cứu về nó. Sau đây chúng tôi ghi lại một số nhận định đáng chú ý.

Nhận định về trường ca Bước gió truyền kỳ, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều - Phó Chủ tịch Hội Nhà văn VN có sự đồng cảm: “Khi nào những ngọn gió còn thổi trên đất đai này thì những bài ca bi tráng về lịch sử của dân tộc còn vang mãi trong tâm hồn chúng ta. Và Bước gió truyền kỳ của thi sĩ Phan Hoàng đã dẫn tôi đi theo một con đường riêng của nó”.

Đạo diễn, nhà thơ Văn Lê trong lời mở đầu trường ca này của nhà thơ Phan Hoàng thì phát hiện rằng: “Khi dùng hình tượng ngọn gió làm trung tâm, xuyên suốt tập trường ca là anh có dụng ý nói về cái đã qua, đã muộn, đã trở thành quá khứ, thành lịch sử.

Anh đã khéo léo kéo xa về gần, đưa cội nguồn về với hiện tại. Cả tập trường ca là một câu chuyện truyền kỳ về công cuộc mở cõi và giữ nước của dân tộc Việt Nam ta. Những vấn đề mà anh đặt ra trong thơ luôn làm cho người đọc phải thảng thốt, giật mình”.

Nhà thơ, nhà phê bình Hoàng Thuỵ Anh từ Quảng Bình đã viết: “Bước gió truyền kỳ của Phan Hoàng (NXB Hội Nhà văn 2016) là trường ca trữ tình hiện đại, đậm chất suy tưởng. Ngoài phần mở đầu và phần vĩ thanh, tập thơ có 3 phần với sự kết hợp ngẫu hứng, trùng điệp, đan xen những câu thơ ngắn dài.
Trong đó, gió là hình tượng xuyên suốt, làm nền/điểm tựa cho cảm xúc thơ. Hình tượng gió vừa cụ thể vừa khái quát, đi về giữa quá khứ và hiện tại, thực và mộng, hôn phối với cảm hứng, niềm tự hào, tôn vinh lịch sử hào hùng của dòng giống Lạc Hồng từ những ngày đầu dựng nước, giữ nước, biến chuyển qua mấy ngàn năm cho đến hôm nay. Theo đường gió dẫn dụ, không gian thơ, hình tượng thơ, cảm xúc thơ được nới rộng đến vô cùng”.

Ở góc độ nhà nghiên cứu chuyên sâu, PGS.TS Cao Hồng ở Đại học Thái Nguyên chia sẻ: “Trong tập trường ca của Phan Hoàng, gió là một sinh thể tự nhiên, hiện diện trong không gian rộng lớn, từ thuở hồng hoang, sơ khai của lịch sử đến thời kỳ giữ nước dựng nước.

Nhưng gió ở đây không đơn thuần là một tín hiệu tự nhiên mà đã trở thành một tín hiệu nghệ thuật, thẩm mỹ. Gió là hiện thân tiếng nói của nhà văn, cất giữ những vẻ đẹp nguồn cội, những thăng trầm của đất nước”.

Còn nhà văn Trần Nhã Thụy ở TPHCM lại khẳng định: “Một nhà thơ mà không có giọng riêng, e rằng đã thất bại ngay từ khi "thử giọng".

Với Phan Hoàng, tôi thấy anh có một giọng thơ hào sảng rất riêng, nó như được nuôi dưỡng hun đúc từ nắng gió sông Ba - Phú Yên quê anh; từ những trang sử Việt mà Phan Hoàng nhuần nhuyễn từ thời tuổi trẻ. Gió muôn đời là gió nhưng đã là gió thì phải mới; "bước gió" của Phan Hoàng rất mới. Xin chúc mừng thành công mới của con đường sáng tạo Phan Hoàng".
Nhà thơ Phan Hoàng (giữa) nhận Giải thưởng VHNT TPHCM 5 năm lần II

Từ phố biển Đà Nẵng, Tiến sĩ Hoàng Hường của Đại học Duy Tân cảm nhận: “Từ nghìn năm trước và mãi đến tận bây giờ vẫn vậy, truyền thống hào hùng của một cộng đồng trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước đã đi vào Bước gió truyền kỳ như một câu chuyện mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Ngọn gió vô danh được tạo thành từ sinh khí đất trời, từ hào khí dân tộc, từ cội nguồn lịch sử, từ bước chuyển lưu dân, từ nỗi niềm trăn trở của tâm hồn mỗi người hòa cùng hơi thở thời đại. Có dân tộc nào tồn tại, phát triển mà không chất chứa trong nó những nhọc nhằn, thăng trầm cay đắng - dân tộc Việt, con người Việt cũng vậy.

Song Phan Hoàng đã đưa người đọc đồng hành, hóa thân vào bước gió, “lang thang khắp mọi ngả đường Tổ quốc/ uống dòng hào khí bi hùng ngàn năm/ dòng hào khí đánh đổi tinh hoa lớp lớp người người” để rồi hun đúc trong họ tình yêu quê hương ngày càng nồng cháy, thắm thiết và khát vọng vào một nước Việt sẽ mãi “vượt thoát sinh tồn vĩ đại dòng giống rồng tiên”.

Nhà thơ Đặng Huy Giang nổi tiếng giỏi thẩm định thơ của Hà Nội thì viết: “Xét về mặt nội dung, trường ca “Bước gió truyền kỳ” thực chất là một tráng ca. Còn xét về mặt hình thức, trường ca “Bước gió truyền kỳ” rất mở.

Mỗi khúc, mỗi đoạn của nó có thể đứng độc lập, những một khi được kết nối, nó tạo ra sự gắn kết, sự tiếp nối. Theo tôi, đây chính là đóng góp của Phan Hoàng về mặt thi pháp cho thơ nói chung và thể loại trường ca nói riêng trong thi ca Việt Nam hiện đại”.

Tiến sĩ Mai Thị Liên Giang của Đại học Quảng Bình đã đi xa hơn: “Điểm bắt đầu của thơ anh là thơ mới, thơ tân hình thức, thơ hậu hiện đại và điểm dừng chân hiện tại là trường ca. Biết đâu từ trường ca, nhà thơ trong hành trình ngược lối lại về với lục bát, tứ tuyệt… mà vẫn không hề xưa cũ. Lối đi ngược của anh không giống ai nhưng đã giúp anh có con đường đi riêng vào lâu đài văn học.

Con đường ấy vẫn còn nhiều ngã rẽ. Và mỗi lần dẫn dụ người đọc rẽ lối là mỗi lẫn nhà thơ vẫy gọi người đọc chú ý hơn trong lộ trình đi tìm bí mật ẩn giấu trong tác phẩm của anh. Đây là điều cần thiết đối với nhà thơ ở Việt Nam hiện nay một khi không muốn mình thành người nhả chữ quen thuộc, sáo mòn.
Ngược lối như chính tác giả đã viết: Đôi lúc ta gặp trên đường những chàng trai phi ngựa như bay, đôi khi ta gặp những cô gái rực rỡ yếm đào chít khăn mỏ quạ, họ ngược thời gian đi về phía giấc mơ cháy bỏng xuân thì.”

Nhà thơ, nhà phê bình Nguyễn Chí Hoan liên tưởng: “Trường ca Bước gió truyền kỳ của Phan Hoàng gợi lên dáng vóc một vở kịch-múa hiện đại về hình thức biểu hiện. Toàn bộ dựa trên tính tượng trưng cao, cho dù, tất nhiên, bút pháp mô phỏng anh hùng ca cổ điển ở đây không hề là một bút pháp tượng trưng.
Tính tượng trưng bao trùm đó là bởi ý niệm khởi hứng của tác phẩm này: ý niệm về “gió” như là một trung giới cho linh hồn và cũng là một “trường” mang chứa những linh hồn.

Nhà phê bình, Tiến sĩ Phạm Ngọc Hiền nhìn nhận: “Bước gió truyền kỳcũng kết hợp nhiều thể loại: thơ và văn; có thơ tự do và thơ lục bát; xen kẽ đoạn dài, đoạn ngắn… Bên cạnh những từ ngữ cổ kính, tác giả cũng sáng tạo nhiều cách diễn đạt mới mẻ để “hội nhập” với thời công nghệ:

một chuyến tàu lênh đênh
vượt thoát những cơn đại hồng thủy lập trình
nhiều đêm trầm tư uống ánh sao khuya
nối mạng
hóa ngọn gió phần mềm...

Sự kết hợp nhiều loại giọng điệu, thể văn, từ ngữ có tác dụng làm cho bản trường ca tránh được sự đơn điệu. Nhờ vậy, bạn đọc vẫn không bị nhàm chán khi dõi theo hành trình của ngọn gió lang thang suốt 90 trang sách, từ cổ đến kim, từ Bắc vào Nam…

Trải qua bao thử thách của thời gian, không gian và thăng trầm lịch sử, “Bước gió truyền kỳ” vẫn khỏe khoắn, mặc sức tự do “lang thang cùng chim muôn bình đẳng diễn ngôn đại ngàn”…”

Nhà báo Phan Thuỷ của Đà Nẵng cũng đã viết: “Phan Hoàng từng tâm sự, lớn lên trong ngọn gió Tuy Hòa, gió luôn ám ảnh trong anh. Với thi nhân “gió biểu tượng cho sức mạnh, sự kiên trì, tình yêu mạnh mẽ”.

Đọc Bước gió truyền kỳ, độc giả như cuốn theo đường đi biến hóa vi diệu của ngọn gió, lúc trầm hùng sử thi, lúc trầm lắng suy tư đến xót xa, lúc ào ào như thác đổ, lúc réo rắc như cung đàn…

Cũng nói về nỗi đau, sự biệt ly do chiến tranh gây nên, nhưng nỗi đau trong Bước gió truyền kỳ không mang dáng vẻ bi lụy, uất hận mà giàu đức hy sinh, sự nhẫn nại, kiên trì. Nỗi đau ấy mang tính nhân văn, lòng bao dung, vị tha của một dân tộc vì chịu quá nhiều đau thương do chiến tranh gây ra nên rất hiểu cái giá của sự hòa bình, luôn mong mỏi được sống trong hòa bình, bình yên”.

Nhà thơ, nhà phê bình Nguyễn Vũ Tiềm cũng khái quát: “Lại nhớ tập thơ của Phan Hoàng xuất bản 4 năm trước có tên Chất vấn thói quen (được Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam và Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM), càng thấy rõ sự nhất quán trong quan điểm nghệ thuật của anh: dứt bỏ thói quen cũ, đổi mới thi pháp thơ.

Là trường ca ôm trùm vấn đề rộng lớn nhưng anh không sa đà vào kể và tả mà coi trọng nghĩ và cảm; mỗi phần hay toàn cục, anh không kết thúc đóng mà kết thúc mở. Đó là những yếu tố chủ yếu của thi pháp mới. Phan Hoàng bắt nhịp với sự chuyển đổi ấy một cách thanh thoát và hiệu quả.

Trường ca thường có nhân vật, nhưng Bước gió truyền kỳ, Phan Hoàng không mượn một, hai nhân vật lịch sử cụ thể nào mà anh lấy sinh thể gió, vừa hiện hữu vừa mơ hồ; vừa hiu hiu vừa bão táp; vừa quá khứ vừa hiện tại làm “nhân vật” chính là một sáng tạo độc đáo, mới mẻ”.

Nhà thơ Trần Hoàng Vy của Tây Ninh cảm thức rằng: “Lịch sử ẩn mình vào thơ mà tâm sự, dòng cảm xúc cứ bật ra, để những đồng cảm lan tỏa vào những con tim cùng nhịp đập quê nhà... Bước gió chính là bước chuyển mình của lịch sử, không vần vè hóa mà là thi ca hóa những hình tượng lịch sử, là thông điệp nhắc nhở mọi người về bản chất con người yêu nước, ngoái nhìn cội nguồn để trân trọng:

“Thức dậy trong ta bước chân huyền thoại/ thức dậy trong ta ngọn gió trăng rằm/ thức dậy trong ta nỗi buồn cổ tích/ thức dậy ước mơ khí phách cha ông/ Ước mơ bao dung tình sông/ ước mơ hiên ngang dáng núi/ ước mơ ủ mầm khí thiêng/ bật từ đất đai ngàn xưa trấn biên/ âm vang bước gió truyền kỳ”.

CHÂU THANH
Theo Đất Việt



Thứ Tư, 24 tháng 4, 2019

Phạm Công Thiện & Ý thức mới

Bài dịch dưới đây là Lời nói đầu trong tác phẩm Ý thức mới - Phạm Công Thiện, Tư tưởng gia Việt Nam của tác giả Nohira Munehiro. Sách dày 350 trang, do Iwanami Shoten xuất bản tháng 6.2009, và năm 2010 tác phẩm này được nhận giải thưởng của Hội Sử học Đông Nam Á của Nhật Bản. Tác giả Nohira có nhiều năm đọc sách Phạm Công Thiện và khi viết tác phẩm đã sang tận Mỹ để gặp gỡ ông. Đây cũng chính là luận án đệ trình Tiến sĩ tại Đại học Ngoại ngữ Tokyo. Xin cảm ơn dịch giả Nguyễn Tiên Yên và trân trọng giới thiệu bản dịch đến bạn đọc tham khảo, để hiểu thêm về một nhân vật đã sống và sáng tạo trong một giai đoạn lịch sử biến động ở miền Nam nước ta.
Nhà thơ - triết gia Phạm Công Thiện

LỜI NÓI ĐẦU

Sách này sẽ cố gắng giới thiệu đến người đọc tiếng Nhật về nhân vật Phạm Công Thiện (1941-[2011]) - một tư tưởng gia, một thi sĩ đã xuất hiện tại Nam Việt Nam (tức Việt Nam Cộng hoà) thời chiến tranh Việt Nam, cũng như muốn làm sáng tỏ tư tưởng được cho là khó hiểu trong các tác phẩm của ông.

Phạm Công Thiện là một trí thức Phật giáo đại biểu cho Nam Việt Nam thời chiến tranh Việt Nam. Từ khoảng giữa thập niên 1960 trở đi, khi những trước tác của ông liên tục xuất bản, thì tiếng tăm ông lan rộng đến mức trở thành một hiện tượng thịnh hành với tên gọi hiện tượng Phạm Công Thiện, thậm chí còn được tôn sùng như thần tượng của giới trẻ đang sống trong tuyệt vọng chiến tranh(1). Thế nhưng đột nhiên ông mất tích khỏi Việt Nam vào năm 1970. Có thi sĩ gọi ông là ngôi sao băng(2).

Về một Phạm Công Thiện như ngôi sao băng đột ngột xuất hiện ở Việt Nam, xé toang đêm tối của thời đại chiến tranh rồi bất ngờ biến mất, hầu như không được biết đến ngoài lãnh thổ Việt Nam, và ngay ở Việt Nam hiện tại cũng chưa có được một đánh giá nghiêm cẩn(3). Tuy nhiên, theo như tôi thấy, ông không những mười phần xứng đáng để nghiên cứu lại như là nhân vật đã cật vấn rất căn nguyên về địa ngục chiến tranh Việt Nam ngay tại đất nước đương sự, mà tôi cho rằng tư tưởng ông đưa ra chứa đầy tính trọng yếu không thể nào bỏ qua được đối với chúng ta những kẻ đang sống trong thế giới hôm nay mà toàn thể địa cầu đã bị phủ kín bởi tri thức cận đại và khoa học kỹ thuật có nguồn gốc từ Tây phương. Cho nên, lẽ thường, tôi phải giới thiệu ông qua cách giải thích của riêng mình đối với tư tưởng nan giải của ông.

Điều trọng yếu cần phải quan tâm khi nghiên cứu tư tưởng Phạm Công Thiện đó chính là những tác phẩm mà ông đã viết, còn mấy thứ như kinh nghiệm từng trải, quá trình học tập hay công ăn việc làm chỉ dừng ở mức yếu tố thứ yếu. Tuy nhiên, với một nhân vật có thể nói gần như vô danh tại Nhật Bản, dầu sao chăng nữa trước tiên hết, tôi muốn giới thiệu thật đơn giản coi Phạm Công Thiện là nhân vật như thế nào. Để vậy, có lẽ phương pháp tốt nhất là trích dẫn nguyên văn mấy lời tự giới thiệu bản thân rất khác thường do chính ông viết vào những năm giữa tuổi 20. Trong thi tập Ngày Sanh của Rắn xuất bản năm 1966, bài tự giới thiệu được viết như sau:

Sinh vào năm rắn, bên dòng sông Cửu long, vì tranh luận học vấn với giáo sư, nên bỏ học trường lúc 13 tuổi, viết sách lúc 14 tuổi; làm giáo sư sinh ngữ từ lúc 16 tuổi đến 20 tuổi tại những trường ở Sài Gòn, Mỹ Tho, Đà Lạt, Nha Trang; quyển sách khảo luận đầu tiên được xuất bản vào lúc 16 tuổi(4), viết quyển Ý thức mới trong Văn nghệ và Triết học vào lúc 20 tuổi; học triết lý tại trường đại học Yale, đệ trình tiểu luận Ý niệm về chân lý trong tư tưởng Platon và Heidegger tại hội thảo triết lý ở Yale; tiếp tục học triết lý tại trường đại học Columbia, khinh bỉ giáo sư và bỏ học bổng của Viện Giáo dục Quốc tế, bị viện mời đi gặp bác sĩ phân tâm học, được mời khéo vào nhà thương điên, lại tranh luận với bác sĩ phân tâm học về giá trị và giới hạn của phân tâm học hiện đại, chỉ trích đời sống nông cạn của Mỹ quốc, sống lang thang lây lất ở xóm nghệ sĩ Greenwich Village tại New York; đã gặp Henry Miller, tại Pacific Palisades ở California, được Henry Miller nhận là Rimbaud lại ở thế kỷ XX, sau đó được một văn sĩ Do thái cho tiền để trốn qua Paris không giấy tờ, không hành lý, sống bơ phờ ở Bretagne, học văn chương tại trường đại học Rennes, khinh bỉ giáo sư, rồi lại bỏ đi và sống lang thang lây lất khắp hang cùng ngỏ hẻm ở Paris, làm clochard đi ăn mày, ngủ dưới cầu, ngủ trên vỉa hè, đói lạnh long đong và bỏ làm luận án tiến sĩ tại Pháp, được Henry Miller gửi tiền nuôi sống và được Henry Miller cho tiền rời bỏ Paris để sống lang thang giang hồ tại Thụy sĩ, Ý Đại Lợi, Ba Tư, Hy Lạp,Thái Lan, vân vân. Lúc ở Paris thì nhập bọn với nhóm nghệ sĩ trẻ ở Popoff, la cà vất vưởng ở xóm Saint Séverin và Saint Germain des Prés, đã gặp Krishnamurti hai lần tại Square Rapp. Hiện đang sống chờ đợi điên và chờ đợi chết, triệt để đứng ngoài tất cả ý thức hệ chính trị, đứng ngoài mọi sự tranh chấp tôn giáo, khinh bỉ tất cả văn hóa nhân loại, thù ghét tất cả mọi tổ chức xã hội, vô cùng kiêu hãnh, chỉ đi một mình và tự nhận là thiên tài độc nhất của Việt Nam.

Thật đúng với những gì tôi đã cảm nhận từ đoạn văn trên, Phạm Công Thiện - hay hậu thân của Rimbaud - là người nổi tiếng có lời nói hành vi cực kỳ quá khích ở Nam Việt Nam nửa sau thập niên 1960. Không chừng chính từ mấy câu tự giới thiệu này mà ông bị mang ấn tượng phải chăng đây chỉ là một nhân vật ma mãnh tự xưng thiên tài, rồi thì nói năng ba hoa, liều lĩnh chống đối quyền uy. Có điều, tất cả không gì khác ngoài ngộ nhận.

Từ thủa thiếu thời Phạm Công Thiện đã đọc thông hiểu một lượng khổng lồ sách vở cổ kim Đông Tây bằng nguyên ngữ, và có dáng vẻ bác học đến nỗi người trong thiên hạ phải gọi là thần đồng, là thiên tài. Nhưng đâu chỉ dừng lại ở bấy nhiêu đó. Ông còn đấu tay đôi với tư tưởng của Nietzsche, Heidegger, Henry Miller, Suzuki Daisetz, Long Thụ; ông lại mạo hiểm phá hoại nền tảng suy tư siêu hình học Tây phương – nơi khởi nguồn của chiến tranh cận đại cũng như phân tâm học; ở chỗ tận cùng của ý thức và tồn tại ông tìm thấy tư tưởng hố thẳm cần phải đối chọi với địa ngục (naraka) của thời đại chính là chiến tranh Việt Nam. Hơn nữa, giống như Henry Miller, sự minh tuệ của ông luôn gắn liền với đời người. Ông không bị cầm tù trong ‘vọng niệm’ như là ‘thường thức’ và ‘tập quán’ - những thứ do thế giới ngôn ngữ hiện tại tạo ra đã trói buộc đời sống con người, ông đốt cháy đời sống tự do của mình, ông sống y nguyên như vốn có. Đoạn tự giới thiệu trên đã bày tỏ chân thật điều đó.

Như chính ông cũng đã ý thức được bản thân “chỉ đi một mình”, trong lòng thét gào rất chính trực và cực cùng cô độc bất chấp bị thế gian cự tuyệt không chút đồng cảm. Vậy thì cái tư tưởng đó thật sự là như thế nào? Bắt đầu từ đây, tôi sẽ đuổi theo quỹ đạo của ngôi sao băng này.

Cấu thành của sách

Đoạn văn tự giới thiệu của Phạm Công Thiện dừng lại ở những ghi chép cho đến giữa tuổi hai mươi khi tập thơ được xuất bản, nhưng ở Chương Mở đầu, một lần nữa, tôi sẽ hết sức tóm tắt theo trình tự thời gian và muốn giới thiệu thật đơn giản về cuộc đời phiêu bạt từ lúc mới sinh cho đến tận hiện tại của ông(5), chủ yếu dựa trên những gì ông đã viết trong các trước tác của mình.

Chương Mở đầu giới thiệu cuộc đời ông đầy những thăng trầm, chỉ bấy nhiêu đó cũng thú vị lắm rồi, nhưng điểm mấu chốt của sách này nói chung không gì ngoài đương đầu với sự khó hiểu, và làm sáng tỏ tư tưởng của ông mà hầu như đã không được đặt thành vấn đề đích đáng. Có điều, chính vì tư tưởng của ông triển khai trên tiền đề là phải thông bác từng chữ Đông Tây kim cổ, vì thế nếu không có một tri thức tiền đề cỡ đó thì chắc chắn sẽ cảm thấy khó hiểu. Hơn nữa thuật ngữ mà ông sử dụng, ví dụ như thuật ngữ chủ yếu là Tính chẳng hạn, thoạt nhìn có vẻ đơn thuần nhưng thực ra bên trong ẩn chứa ý nghĩa độc đáo hoàn toàn khác với thông thường. Sẽ rất khó thâm nhập vào tư tưởng của ông nếu như không hiểu được những thuật ngữ như vậy có ý nghĩa ra sao, dù xét trên bề mặt hay xét về hình thức đi nữa, cho nên ngay từ đầu nhất thiết phải nát óc với những thuật ngữ độc đáo của ông coi chúng mang ý nghĩa là gì. Vì thế, Chương Một sẽ lấy vấn đề ‘ông đã suy nghĩ về chiến tranh Việt Nam như thế nào’ làm manh mối để giải thích về ý nghĩa của thuật ngữ chủ yếu Tính mà ông sử dụng. Sau đó, sẽ khảo sát xoay quanh sự lãnh hội của ông về ‘tư tưởng Heidegger’ và ‘Thiền’– là hai thứ đã làm tiền đề nghĩ ra thuật ngữ đó.

Chương Hai lấy trục chính là thuật ngữ Tính và Việt, tôi chọn ra Im lặng Hố thẳm tác phẩm đại biểu của nửa sau thập niên 1960 đã đề xuất tư tưởng Việt Nam độc đáo ở thời đại chiến tranh Việt Nam, và cố gắng đọc hiểu trước tác nan giải này. Ngoài Tính và Việt vừa nói, còn tiến hành khảo sát chú trọng vào những cụm từ hay danh từ riêng mà tôi cho là tối quan trọng trong trước tác này như Im lặng Hố thẳm cũng là tên của trước tác; như Dịch hoá pháp – chữ mà Phạm Công Thiện chọn làm dịch ngữ cho ‘Dialektik’ của Long Thụ đối kháng lại Biện chứng pháp; và như Không Lộ – cũng là tên của một Thiền sư Việt Nam thời xưa. Ngoài ra, từ Chương Hai trở đi sẽ tích cực sử dụng Lý luận Phân tiết Ý nghĩa Ngôn ngữ của Giáo sư Izutsu Toshihiko để cố gắng làm rõ ràng thêm về ‘tư tưởng của Phạm Công Thiện đã coi thuật ngữ Tính đóng vai trò trung tâm’.

Chương Ba sẽ luận về, ‘tính liên quan tư tưởng giữa Henry Miller, Heidegger và Phật giáo mà Phạm Công Thiện đã tìm ra’, và, ‘sự hình thành tư tưởng độc đáo của Phạm Công Thiện khởi từ đó’. Cụ thể trước hết, liên quan đến Thư ngỏ gửi Henry Miller tố cáo trạng huống chiến tranh Việt Nam, sẽ khảo sát về vấn đề nguyên do tại sao Phạm Công Thiện đã hỏi Miller câu hỏi tồn tại luận còn nặng ảnh hưởng của Heidegger. Tiếp theo, căn cứ trên tư tưởng của Heidegger và Miller mà truy tìm chân ý của mệnh đề táo bạo của Phạm Công Thiện Sein của Heidegger chính là Cunt của Miller. Rồi khảo sát tư tưởng Việt Nam của Cái và Con – mà Phạm Công Thiện đã đề xướng – nghĩa là như thế nào, dĩ nhiên có liên quan mật thiết đến ý nghĩa của mệnh đề trên, nhưng ở đây ông đã lựa chọn Cái và Con gần gũi hơn trong tiếng Việt.

Từ những khảo sát về tư tưởng của Phạm Công Thiện cho đến đây, Chương Bốn chuyển sang khảo sát đặt trọng điểm vào sáng tác của ông. Tôi sẽ chọn ra những sáng tác cụ thể của ông – người coi mình không phải tư tưởng gia cũng chẳng phải triết gia mà là một thi sĩ, và suy nghĩ xem có thể tìm thấy tư tưởng gì ở đó, thêm thay đối với ông thơ và nhà thơ mang ý nghĩa gì? Trước hết, Phạm Công Thiện là người đã phê phán Siêu hình học Tây phương như là nguyên nhân căn bản của chiến tranh Việt nam, như vậy ông đối chọi như thế nào đối với Tự ngã cận đại được hình thành ở nửa đầu thế kỷ XX trong văn học Việt Nam thông qua thuộc địa hóa của thực dân Pháp, đó là ‘khảo sát phương diện phá hoại trong tác phẩm của ông’ đặt trọng tâm vào tác phẩm Mặt trời không bao giờ có thực. Kế tiếp, Phạm Công Thiện đã lý giải như thế nào về mối quan hệ giữa làm thơ và quê hương để rồi biến nó thành tác phẩm, đó là ‘khảo sát phương diện sáng tạo trong tác phẩm của ông’. Rồi ngược về tận nguồn cơn làm thơ mà đối với ông được gọi là Thơ hay Nguồn Trong Trẻo viết hoa, để từ đó nhìn xem thi nhân làm thơ và tư tưởng về quê hương như thế nào bằng tiếng mẹ đẻ, nhờ đó mới suy nghĩ về quan hệ tính căn nguyên của ‘ngôn ngữ’, ‘thế giới’ và ‘thi nhân’.

Ở Chương Kết thúc sẽ nhìn lại những khảo sát từ đầu, chỉ ra cho thấy bước đi của cuộc đời Phạm Công Thiện, là bước đi hướng về chỗ đồng nhất – hiện đang tiềm phục có thể siêu việt thời đại cũng như hai bờ Đông - Tây, nó hình như được đánh dấu nghĩa là Tâm cũng là Nguồn Trong Trẻo; và là sự mạo hiểm mà con người hiện đại hướng về chỗ bên trong bản thân mình vẫn đang chưa biết.

NOHIRA MUNEHIRO
NGUYỄN TIÊN YÊN dịch

____________________
(1) Trần Tuấn Kiệt đã viết như sau về mối quan hệ giữa trước tác của Phạm Công Thiện với giới trẻ trong chiến tranh Việt Nam. “Ý thức Bùng VỡÝ thức Mới đầy phẫn nộ, cuồng bạo của Phạm công Thiện được tuổi trẻ đón nhận ồ ạt, ấy cũng vì tâm hồn người trai trẻ trong sóng gió muốn nương vào chiếc bè gỗ trên sóng gió mà đỡ bớt chới với trong Mê cung địa ngục.” (Trần Tuấn Kiệt, Tác giả tác phẩm, Đời sống và tác phẩm các văn nghệ sĩ Việt Nam, Sài Gòn, 1973, tr. 26–27).

(2) Lời mô tả Phạm Công Thiện của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền. Nhà văn Mai Thảo ghi như sau trong hồi tưởng của ông:

“Tôi nhớ bấy giờ là cuối năm 1970. Phạm Công Thiện, trong tư cách Khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh, lên đường đi Âu châu dự một hội nghị đại học quốc tế rồi đi luôn không bao giờ còn trở về Việt Nam nữa. Hết thảy chúng tôi đều sững sờ, khó hiểu. Riêng Thanh Tâm Tuyền không. Bảo tôi: “Anh phải nhìn thấy sớm muộn rồi Phạm Công Thiện cũng phải một lần bỏ đi như thế, đi hẳn thật xa, mất tích. Có như vậy mới đúng là Phạm Công Thiện. Chúng ta ít nhiều là những định tinh. Hắn hơn là một hành tinh. Hắn là một ngôi sao băng”.

(Mai Thảo, Chân dung: mười lăm nhà văn nhà thơ Việt Nam, Văn Khoa xuất bản, California, 1985, tr. 146–147).

(3) Hiện tại trên homepage talawas – một diễn đàn văn hóa tư tưởng nghệ thuật của Việt Nam hiện đại do nhà văn Phạm Thị Hoài sống ở Đức chủ trương, có đăng tải một số tác phẩm xuất bản trước đây tại Nam Việt Nam của Phạm Công Thiện như Ý thức mới trong Văn nghệ và Triết họcMặt trời Không bao giờ Có ThựcHố thẳm Tư tưởngIm lặng Hố thẳm, các bản dịch Heidegger Triết lý là gì?Về Thể tính của Chân lý đã được số hóa từ năm 2006. Có thể duyệt xem tại địa chỉ http://www.talawas.org/.

(4) (nd) Tác giả bỏ sót không dịch câu này.

(5) (nd) Chú ý hiện tại ở đây là tính đến thời điểm sách này được xuất bản vào tháng 6 năm 2009, tức khoảng 2 năm trước khi Phạm Công Thiện qua đời tại Mỹ.

Nguồn: NVTPHCM 



Thứ Ba, 23 tháng 4, 2019

Sơn Nam - Ông già Nam bộ lẫy lừng

Vậy là đã chẵn 10 năm ngày giỗ nhà văn Sơn Nam (13-8-2008). Ông tên thật là Phạm Minh Tài, giấy khai sinh ghi, chắc do nhầm, là Tày. Ông là tác giả hàng chục đầu sách thuộc nhiều thể loại, hàng ngàn bài báo có giá trị, cả thơ nữa, nhưng nổi tiếng hơn cả thì phải kể 2 cuốn: Tập truyện ngắn “Hương rừng Cà Mau” và tập khảo cứu “Lịch sử khẩn hoang miền Nam”.
Nhà văn Sơn Nam

Tên tuổi ông giống như một bảo chứng uy tín. Hễ có gì chưa thông tỏ hay còn thắc mắc về vùng đất, con người phương Nam, giới nghiên cứu, cả chính quyền địa phương các cấp nữa lại tìm đến hỏi ý kiến ông. Ròng rã như vậy suốt hàng nửa thế kỷ.

Ông say mê nghiên cứu Nam Bộ một cách lạ kỳ, thủ đắc một khối lượng kiến thức đồ sộ và uyên bác đáng kinh ngạc về đất và người miền Nam. Mặc định, người ta vẫn gọi ông là ông già Nam Bộ. Không ai thắc mắc. Không ai xứng đáng hơn nhà văn Sơn Nam trong danh xưng đó.

Hồi ông còn tại thế, tôi đã diễm phúc có nhiều lần được gặp gỡ, ngồi hầu chuyện và viết về ông. Tôi ấn tượng nhất hai chuyện.

Thứ nhất, ông già Nam Bộ Sơn Nam có lẽ là nhà văn hiếm hoi được dựng tượng kỷ niệm ngay từ khi còn sống. Tượng dựng năm 2007, tại khu du lịch Bình Quới, TP Hồ Chí Minh. Dựng xong, người ta mời ông đến, hỏi ông có giống không, có đẹp không? Ông thủng thẳng: “Người qua tướng xấu hoắc, tượng lấy gì đẹp? Giống hay không đi hỏi người xem, hỏi qua làm chi. Nhưng mà tốn tiền. Phải chi đem tiền đó cho sắp nhỏ, mua được bao nhiêu là sách của Sơn Nam cho tụi nó. Dzậy có hơn không!”.

Thứ hai, ông già Sơn Nam hay nói đến tiền. Nói thẳng, không vòng vo úp mở. Hỏi chuyện, ông không nề hà. Hỏi gì ông cũng nói, chưa hiểu là giải thích cặn kẽ. Nhưng xong buổi thì phải nhớ bỏ bao thư. Bao nhiêu cũng được, ít hay nhiều chẳng quan trọng, nhưng không bỏ là ông nhắc ngay.

Có lần, ông đã giải thích: “Qua cũng phải tốn tiền mua sách, đi thư viện mới có kiến thức mà trả lời cho mấy em được chớ. Mấy em muốn biết liền, biết lẹ, mấy em cũng phải tốn tiền là đúng rồi. Cái này qua học cụ Vương Hồng Sển. Cứ đến thăm, hỏi chuyện cụ là qua gửi tiền. Quen dzậy rồi!”.

Thật ra, ông già Nam Bộ cũng chẳng xài gì cho mình. Ai cho ít nhiều, ông lại đem mua hộp cơm, gói bánh, ít sách… gì đó cho đám con nít trong xóm ông tá túc ở gần Thư viện quận Gò Vấp, vùng đất cũ Hạnh Thông Tây mà ông hay nhắc đến say sưa.

Ông không có nhà, tá túc nhờ đến mãn đời tại nhà ông Đào Tăng, một người yêu văn chương không nổi tiếng nhưng hào hiệp và rất quý ông. Liên hoan, ăn nhậu gì đó thức ăn dư còn nhiều, ông cũng kêu chủ quán hay phục vụ bỏ gọn gàng vô hộp xốp, bịch bóng, toòng teng xách về cho đám con nít. Tụi nó thấy ông già Sơn Nam chân nam đá chân chiêu (tại cái dáng đi của ông vậy chứ ông chẳng bao giờ say) trở về là chạy ùa ra, reo ầm lên.

Bố mẹ chúng kêu ông bằng tía, con nít đứa kêu là ngoại, đứa kêu bằng nội, hoắng củ tỏi lên. Ông cũng chẳng mấy khi cười, cứ lầm lầm lì lì “đôi mắt… bồ câu con đậu con bay” đưa đồ ăn, đưa quà cho sắp nhỏ rồi về nghỉ. Ông không nhớ tên, cũng chẳng biết đứa nào lại đứa nào.

Xe máy không có, xe đạp hình như chẳng biết đi. Tứ thời ông nhà văn già ốm tong, áo ngoài quần, mắt hấp ha hấp háy, chân cẳng liêu xiêu cứ dép lê loẹt quẹt mà rong khắp phố phường. Chừng một đoạn, thế nào cũng có người nhận ra, kêu tía đi đâu, lên đây con chở. Kêu lên thì ông lên, cũng chẳng cần biết người mời là lạ hay quen.

Dường như khắp Sài Gòn ai cũng kêu ông bằng tía, nghĩa đều là hàng con cháu, ông việc gì phải hỏi tên cho mệt. Thường trực, người ta gặp nhà thơ Phạm Sĩ Sáu, nhà báo Võ Đắc Danh, nhà thơ Bùi Chí Vinh, nhà thơ Trần Hữu Dũng… hay chở ông đi hơn cả. Nếu ông không kêu đến tòa soạn hay địa chỉ nào cụ thể, họ cứ chở đại ông già Nam Bộ lên trụ sở Hội Văn nghệ thành phố ở 81 Trần Quốc Thảo, quận 3, thả ông đó rồi ưng đi đâu cứ đi. Một hồi, khắc có người sẽ chở ông già về. Không ai chở thì ông đi bộ. Ông bảo chả lo gì, chỉ lo già!

Ông già Nam Bộ cũng chẳng mấy khi đi đâu xa. Hầu hết thời gian, ông cứ ngồi tẩn mẩn đọc đọc ghi ghi ở Thư viện Gò Vấp. Nhà nghiên cứu, sinh viên làm luận văn, nghiên cứu sinh đang viết luận án, muốn hỏi gì cứ lên đó mà tìm ông, thế nào cũng gặp. Khi đã 80 tuổi (ông sinh năm 1926), ông vẫn thường lạc quan: “Mấy chuyện này hay lắm.Để dành, hồi nào già qua sẽ viết!”. Đám con nít cũng hay lên đó vừa đọc sách, vừa chơi, giỡn với ông già. Thư viện Gò Vấp trở thành trụ sở tiếp khách kiêm nơi làm việc chính thức của ông. Ở đó, người ta bố trí riêng cho ông già Nam Bộ một góc riêng nho nhỏ. Năm 2004, NXB Trẻ mua bản quyền các tác phẩm của Sơn Nam với giá 300 triệu đồng.
Nhà lưu niệm nhà văn Sơn Nam ở Mỹ Tho - Tiền Giang.

Thời điểm đó, ông là nhà văn Nam Bộ đầu tiên được mua trọn bản quyền một lần. Số tiền này lúc đó tương đối lớn, nhưng tấm lòng của ông nhà văn già càng lớn rộng hơn bội phần. Ông già chẳng giữ lại chút nào cho mình, đem hiến hết cho Thư viện Gò Vấp để “mua sách cho sắp nhỏ”.

Xuân thu nhị kỳ, ông chỉ vài ba bận lên các tòa soạn báo. Vòng đầu gửi bài, tua sau nhận nhuận bút. Đưa bao nhiêu nhận bấy nhiêu, ông chẳng hỏi, cũng chẳng thèm để tâm được bao nhiêu còn bao nhiêu. Nhiều văn nghệ sĩ làm công tác tòa soạn quí ông già Nam Bộ, trong đó có nhà văn Trần Tử Văn, cả khi làm Báo Công an nhân dân lẫn khi làm báo Công an TP Hồ Chí Minh, cứ thấy ông đến là rút đưa ông ít tiền, có bài hay không cũng mặc.

Nhuận bút đưa trước, thường bằng tiền túi chứ không phải tiền tòa soạn. Bữa sau ông đến nữa thì đưa nữa, gặp đâu đưa đấy, gặp lúc nào đưa lúc ấy, còn nhiều đưa nhiều, có ít đưa ít, không mất thì giờ cố nhớ xem bài của ông già Sơn Nam in chưa, lãnh nhuận bút chưa.

Biết thói quen này nên cũng có tay văn nghệ sĩ “vã” lên mượn oai ông chơi bựa. Một lần, đang ngồi ngáp vặt ở 81 Trần Quốc Thảo với chai bia ký sổ, nhà thơ B. thấy ông già Sơn Nam vô. Mừng quá, anh này dắt xe ra ngay, không cho ông già Sơn Nam kịp ngồi, bảo: “Báo nào tía? Lên CAND trước, qua CATP sau nghe. Được, con chở tía đi”.

Đến cổng báo, anh này không cho ông già vào, bắt đứng trông xe với sự nhiệt tình đon đả: “Tía đứng đó nghỉ mệt đi, để con kêu cho”. Vô, anh ta kêu ngay thư ký tòa soạn, không nhà văn Trần Tử Văn cũng nhà thơ Từ Kế Tường, giọng oang oang, lấc cấc: “Ê, lấy nhuận bút cho ông già Sơn Nam. Lẹ giùm đi, bắt ổng giang nắng chờ lâu là hổng được”.

Rẹc rẹc là ra. Không đưa tiền số vừa nhận cho ông già, anh này chở luôn tía đến quán bia ôm, kêu bia ra uống, ca với hút mù trời. Ông già Sơn Nam cũng được một em cỡ tuổi cháu nội ngồi kề lau mặt khăn lạnh và rót bia. Có điều hơi kỳ. Suốt buổi ông già cũng chỉ uống một chai bia. Chẳng ôm ca gì ráo, toàn ngồi nói chuyện phong tục tập quán với cắt nghĩa địa danh miền Tây, miền Đông, lạc đò về tuốt tận xứ Gò Quao, Giồng Riềng chi đó của cô gái luôn. Có chỗ, ông còn cẩn thận giải thích nghĩa, từ tiếng Pháp, chữ Hán, rồi tiếng Khmer… làm cô gái ngồi cùng cứ trố con mắt: “Con hổng hiểu gì dzáo tía ơi”.

Say sưa một hồi, gã nhà thơ B. phải kêu ông già mới sực tỉnh, rằng cuộc vui đã tàn. Gã bảo: “Xong hết rồi nghe tía. Nhuận bút hai chỗ hồi nãy con trả độ này là vừa y nghe. Tía lên, con chở về!”.

Nhưng ông già Nam Bộ vẫn không đứng lên. Thủng thẳng, ông bảo: “Mày đưa tao hai trăm”. Gã nhà thơ ngạc nhiên: “Chi dzậy tía? Tiền bo con cũng cho rồi. Mà năm chục thôi tía ơi, ngồi ca chứ có “làm ăn” gì đâu mà phá giá?”. Ai dè, gã bị ông già Sơn Nam nạt: “Tao bảo đưa, mày cứ đưa đi, hỏi chi?”.

Bất đắc dĩ, nhà thơ B. trứ danh và cà chớn đành bấm bụng móc bóp lấy hai tờ 100 ngàn đồng cho ông già. Đưa hết cho cô “con nhỏ cháu nội” ngồi cạnh, ông già lại thủng thẳng: “Em à! Người ta trai trẻ, người ta bo năm chục. Qua già rồi, em vẫn chịu ngồi nói chuyện, qua bù lỗ thêm cho em hai trăm. Đừng buồn qua nghe!".

Xong, ông mới chịu đứng dậy đi về.

Nhà thơ cơ nhỡ chỉ còn biết trợn mắt há hốc. Gì chứ khoản ăn chơi lịch lãm gã làm sao có cửa qua nổi Sơn Nam - ông già Nam Bộ nhỏ bé lẫy lừng!

Một ngày sau giỗ lần thứ 10 nhà văn Sơn Nam, 14-8-2018
NGUYỄN HỒNG LAM



Dòng thơ văn Thanh Tâm Tuyền

Nhìn lại thơ Thanh Tâm Tuyền, tự nó, là một thế giới, và đồng thời một không gian nhìn ra thế giới. Đây là đặc tính của thơ Thanh Tâm Tuyền, ở những nhà thơ khác dù rất hiện đại, cũng không có, hoặc không rõ nét. Ví dụ trong thơ Tô Thuỳ Yên, chủ yếu ta thấy thảm kịch Việt Nam; thơ Lê Đạt chủ yếu phản ánh tâm cảnh người dân châu thổ Sông Hồng; thơ Dương Tường đưa vào nhiều tiếng nước ngoài, thảnh thót giọt mưa dương cầm tím mộng scheherazade, vẫn là cái liếc nhìn ra thế giới, không phải là tầm nhìn sâu thẳm, xâu xé, xoáy vào thân phận làm người, chủ yếu là người nhược tiểu. Nói như vậy, không có ngụ ý rằng thơ Thanh Tâm Tuyền nhẹ tính cách dân tộc. Phân biệt dân tộc với nhân loại là phiến diện: trong thế giới có Việt Nam và trong Việt Nam có thế giới. Trong Guernica của Picasso có Bến Tre, trong tranh khắc gỗ đình làng Việt Nam có Picasso. Tôi nói thơ Thanh Tâm Tuyền trong hình thức và nội dung là một bước ngoặt trong nghệ thuật và tâm thức Việt Nam là vậy.
Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền

Tuy nhiên cũng phải ghi nhận với ít nhiều tiếc rẻ là lối thơ Thanh Tâm Tuyền không có người thừa kế. Bản thân Thanh Tâm Tuyền về sau, trong tập Thơ ở đâu xa cũng trở về với những thể thơ truyền thống. Nhưng đây là những bài thơ làm trong lao lý, trong những hoàn cảnh đặc biệt, không cho phép chúng ta suy diễn về lý thuyết. Dù sao ông đã mở ra những chân trời mới và cách tân quan niệm thi ca.

***

Câu thơ, bài thơ mới, đọc qua thấy ngay. Câu văn, cuốn truyện mới, khó nhận ra hơn. Người bình luận phải phân biện: mới so với cái gì, và mới ra sao. Nhưng điều cụ thể nhất lại là: người đọc đương thời có nhận ra nét mới ấy không?

Thưa rằng có. Nhà văn Nguyễn Quốc Trụ, 1973, trên báo Văn, số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền đã dẫn, có một bài viết căn cơ trình bày giá trị, nghệ thuật và tính chất súc tích của truyện Bếp lửa, 1957. Ông trích dẫn cặn kẽ nhiều văn bản, nhiều tham khảo, để lại một chứng từ chính xác[2].

Tôi còn một chứng từ riêng: bạn tôi là Đinh Ngọc Mô, nhiều người biết vì có thời phụ trách mục Đố vui để học trên truyền hình Sài Gòn, quen nhau từ 1965 tại Đà Lạt, gặp lại nhau 1970 tại Paris. Lúc ấy, Mô sống vất vả, lang bang, đi đàn hát trong các nhà hàng Việt Nam để mưu sinh. Một tối về khuya, dọc Boulevard des Italiens, Mô đã đọc thuộc lòng cho tôi nghe những trích đoạn dài của Bếp lửa mà anh tâm đắc và cho là tân kỳ. Thuộc thơ Thanh Tâm Tuyền đã là khó, thuộc văn xuôi lại không dễ. Vắng tin nhau khá lâu, có người mách là Mô đã qua đời, đã tự tử bên Canada. Tôi không muốn tin, nhưng mỗi lần mở truyện Bếp lửa, là tôi tìm lại những đoạn Mô đã đọc, cho đến bây giờ sách đã vàng ố, tả tơi, rách nát như cuộc đời của chúng tôi. Trước khi kể lại chuyện này, tôi rà lại tin tức, thì bè bạn bốn bể năm châu đều xác nhận chuyện buồn. Mà tôi vẫn chưa tin, và muốn hỏi Mô: Mô ơi, thật à? Cậu ấy vui tính, hay đùa.

Bạn đọc cho là tôi lạc đề. Thân tình thì biết tôi chỉ mới lạc dòng, lạc giọng, mà không lạc đề.

***

Tiềm năng độc giả thời đó là học sinh trung học: sinh viên đại học chưa nhiều. Và chúng tôi thiếu sách để đọc. Văn chương quốc ngữ thời đó, bỏ ra một kỳ nghỉ hè, có thể đọc hết toàn bộ.

Sách Tự Lực, Vũ Trọng Phụng thì đọc cả rồi… Các tác gia ở lại miền Bắc ít được tái bản. Và chúng tôi khao khát cái mới, các truyện ngắn của Doãn Quốc Sỹ, Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo, Thao Trường. Những “Chiếu hoa cạp điều, với Hương gió lướt đi. Thậm chí, chúng tôi còn bất công với cái cũ: tạp chí Văn hoá Ngày nay của Nhất Linh bán chạy được hai số, rồi thôi. Đoán già đoán non: các vị Đinh Ngọc Mô, Nguyễn Quốc Trụ, cũng như tôi, đã đọc Bếp lửa trên ghế trường trung học, trước khi hư thân mất nết ở nơi khác.

Bếp lửa là một truyện vừa, vừa một trăm trang. Thanh Tâm Tuyền viết liền mạch, rất nhanh, trong vài tháng, xong tháng 10-1956, đưa đi kiểm duyệt và xuất bản ngay[3]. Không có độ lùi để sửa chữa. Sau này, khi tái bản, ông muốn sửa chữa, nhưng không làm được và viện dẫn Malraux: người ta không viết lại được một cuốn sách. Nhưng có một truyện ngắn Đại lộ, nội dung na ná, in lại trong tập truyện Khuôn mặt, 1964.

Truyện được viết từ ngôi thứ nhất tôi. Người kể, tôi tên Tâm, cùng tên với tác giả, đi dạy học tại một trường Công giáo tại Bắc Ninh, còn tác giả dạy tư thục ở Hà Đông, khoảng 1952.

Tuy nhiên Bếp lửa không phải là tự truyện, đại khái như tác phẩm Kẻ dưng, l’Etranger của Albert Camus, bắt đầu bằng câu nổi tiếng: Hôm nay mẹ tôi mất, nhưng chính bà mẹ Camus lại sống lâu hơn tác giả. Trong Bếp lửa, Tâm mồ côi bố từ nhỏ, sau đó mồ côi mẹ, trong khi bà cụ tên thật là Thạch Thị Kim thọ rất lâu, ở Long Khánh. Tính cách mồ côi ở đây là một ẩn dụ, như ở Kẻ dưng hay Cũng đành của Dương Nghiễm Mậu sau này.

Không phải là tự truyện, nhưng Bếp lửa phản ánh tâm trạng tác giả, và một số thanh niên đồng lứa vào thời điểm trước hiệp định Genève, 1954, tại Hà Nội, và vùng phụ cận dưới sự kiểm soát của Pháp. Chủ yếu là những nét chấm phá nhẹ nhàng, nhưng rất sắc về tâm thức chính trị của con người lúc đó qua những nhân vật: ông Chính, đảng viên Quốc dân Đảng, còn hoạt động; Bảo có tham dự phong trào Ngũ xã nhưng nay đã tuyệt vọng; Đại say đắm chủ nghĩa mác-xít và chuẩn bị ra khu; Hoà nhân viên Phòng nhì; Ngọc hoàn toàn hư vô và chối từ tổ quốc… Giữa họ là những nhân vật nữ, hiền lành, vô tội, như chị em Thanh và Minh, em họ Tâm; Hạnh; Thịnh vào ra giữa hai vùng… Còn Tâm? Anh xê dịch giữa đám người đó, không thân không sơ, và nói như Meursault, nhân vật Kẻ dưng: không biết rõ mình muốn gì, nhưng biết rõ những điều mình không muốn. Khi Tâm bị ông hiệu trưởng cho thôi việc, ngạc nhiên một chút rồi rửng rưng ngay. Tôi không hỏi vì cớ gì ông muốn tôi nghỉ việc cũng như ông đã quên không nói cho tôi biết… Tôi cũng chẳng buồn quan tâm. Tôi nhẹ nhõm vô cùng và ngủ một giấc rất say” (tr. 90).

Trong thế giới ấy, quan hệ tình cảm cũng mong manh, sắc sắc không không, như giữa Tâm và Thanh, một cô em họ, cũng mồ côi cha mẹ. Đôi khi tôi nghĩ tôi có thể yêu Thanh và che chở cho Thanh, giây thân thích giữa cúng tôi không đáng kể (…) nhưng chưa bao giờ tôi nói ý nghĩ của tôi cả” (tr. 12).

Quan hệ tính dục cũng nhẹ nhàng thôi. Tâm gặp lại Hạnh, một cô bạn học cũ, đi cùng một chuyến xe chở hàng từ Bắc Ninh về Hà Nội. "Đến Hà Nội, mưa lớn hơn, chúng tôi cùng đi ăn cơm với nhau. Và đêm ấy tôi ngủ với Hạnh ở khách sạn" (tr. 72). Chấm dứt chương 4. Bước sang chương 5: "Tôi có cùng về Hà Nội với Hạnh một vài lần. Gần nhau, tôi nhận thấy chiến tranh – hay chỉ cần sự đe doạ của chiến tranh, tổng quát là sự khủng bố tinh thần – đã thổi vào máu Hạnh sự say đắm nhiệt tình trong yêu đương (…). Sau mỗi lần như thế, khi lấy lại bình thường, Hạnh có vẻ ngượng ngùng. Có một lần nằm cạnh tôi, Hạnh nắm tay tôi để lên ngực nàng nói: Anh có khinh em không?" (tr. 76).

Dĩ nhiên là các vị Nam Tào văn truyện kiêm Bắc Đẩu lịch sử sẽ có người bắt bẻ, hạch hỏi: chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, hay bảo vệ tự do, chỉ có kích thích tính dục người phụ nữ hay sao? Bếp lửa là một trước tác nghệ thuật, và Thanh Tâm Tuyền đã có lần nói: «Người nghệ sĩ đưa sinh mệnh mình để đảm bảo sự thành thật của tác phẩm», thì ắt không buồn quan tâm đến những vấn nạn ấy. Điều chúng ta ghi nhận là nét hững hờ, lãnh đạm của Tâm đã thổi dạt Bếp lửa trôi xa, không những với Dòng sông Thanh Thuỷ của Nhất Linh mà còn xa với Khu rừng lau của Doãn Quốc Sỹ hay Thần Tháp Rùa của Vũ Khắc Khoan đồng hội đồng thuyền.

Một thắc mắc, nhỏ thôi: không khí Hà Nội khoảng 1950-1952 nhất định phải khác xa không khí Sài Gòn 1970-1972. Nhưng về cơ bản, tâm lý thanh niên trí thức có khác nhau nhiều không?

Ngày nay, ngọn lửa chiến tranh vẫn còn tàn phá nhiều nơi trên thế giới; và giữa tiếng kêu la thất thanh của trẻ con, vẫn có lời vinh danh Thượng Đế. Trong Bếp lửa, Thanh Tâm Tuyền đã viết «theo tôi có những lúc người ta cần giải quyết giữa người và người và Thượng Đế không nên có mặt ở lúc ấy (…) Thượng Đế đã bị lôi kéo vào tấn thảm kịch riêng tư của loài người và chỉ có thể thoát ra với sự thất bại» (tr. 67).

Tại Việt Nam, một dải đất còm cõi đau thương, năm 1956, một thư sinh mặt trắng, 20 tuổi, đã viết dõng dạc được một câu như thế, kể cũng là lời tiên tri lạ lùng và cao siêu đấy chứ?

***

Về phong cách, Bếp lửa là một tác phẩm làm mới văn chương chữ nghĩa theo nhận định của Nguyễn Quốc Trụ trong bài đã dẫn. Vậy mới, là so với cái gì, và mới ra sao?

Trong một bài viết tưởng mộ Nguyễn Đức Quỳnh, tác giả Thằng Kình, Thanh Tâm Tuyền 1974 đã viết: «Cùng với Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Thằng Kình là quyển tiểu thuyết quan trọng đối với tôi. Đó là quyển sách đã vỡ lòng, đã mở mắt (…) Tôi không phải là người của một vài quyển sách. Trước và sau khi đọc Thằng Kình, Những ngày thơ ấu, tôi đã đọc hầu hết tiểu thuyết Việt Nam, tôi hiểu được giá trị, tôi cảm được cái hay của nhiều tác giả khác nhưng chỉ có hai tác giả Nguyễn Đức Quỳnh và Nguyên Hồng gây được ở tôi lòng ngưỡng mộ. Văn chương phát sinh từ lòng ngưỡng mộ. Nên tôi không bao giờ quên ơn người đã khơi dậy lòng ngưỡng mộ nơi tôi».[4]

Một lời tình tự như vậy, ở một người ít tự sự như Thanh Tâm Tuyền là quý hoá, là một chìa khoá đưa ta vào thế giới tiểu thuyết, mối hạnh phúc đau đớn, bắt đầu từ Bếp lửa, rồi đến Khuôn mặt, Dọc đường, Cát lầy, Ung thư, Mù khơi, Tiếng động…

Đối với Thằng Kình (1942, Hàn Thuyên, Hà Nội), niềm ngưỡng mộ có lẽ dừng lại ở nội dung mới lạ của tác phẩm, thêm chút tình riêng với tác giả. Chứ nhân vật Kình, khỏe mạnh, tự tin, tích cực, rất xa với nhân vật truyện Thanh Tâm Tuyền; hành văn rậm rạp của Nguyễn Đức Quỳnh cũng xa với lối viết trần trụi trong Bếp lửa.

Gần nhau hơn là Những ngày thơ ấu, Nguyên Hồng viết năm 1938, khi 20 tuổi, như trường hợp Bếp lửa, dưới dạng tự truyện ở ngôi thứ nhất. Bằng giọng văn đơn giản, Nguyên Hồng kể lại tuổi thơ cơ cực, một cách thành thực, như chuyện người mẹ ngoại tình bị gia đình nhà chồng hắt hủi mà đứa con một mực yêu thương. Nhưng cơ bản thì hai truyện khác nhau: Những ngày thơ ấu là tự truyện của một người, dĩ nhiên là mang nét xã hội; Bếp lửa là truyện một thế hệ thanh niên ưu thời mẫn thế, mang nặng chất trí thức và chính trị. Nguyên Hồng viết đơn giản, nhưng thỉnh thoảng vẫn có những đoạn văn chương, ví dụ ngay ở chương I (Tiếng kèn): «Những buổi chiều vàng lặng lẽ… Buổi chiều nào cũng vậy…», không hề có trong Bếp lửa. Và trong một bài báo, «Nhân nghĩ về hội hoạ», 1956, Thanh Tâm Tuyền khước từ lối «văn chương có thể đặt tên là văn chương của bài tập đọc, luận mẫu cho học trò» (Văn 11/1973, tr. 78). Từ đó, đem Bếp lửa ra giảng dạy ở học đường là việc khó, vì khó tìm ra một vài trích đoạn tiêu biểu gọi là «trích diễm». Kinh nghiệm của tôi: yêu cầu sinh viên phải đọc toàn bộ tác phẩm, rồi đưa ra những chủ đề tổng hợp, về hình thức, nội dung. Ví dụ lối kể chuyện đơn tuyến, một mạch theo dòng thời gian, không một lần quay lại quá khứ – cho dù có rơi rớt một vài kỷ niệm – về người mẹ và bà ngoại. Lối dùng từ bình dị, ưu tiên cho từ đơn âm, ít từ kép, càng ít từ Hán - Việt. Lối đặt câu ngắn, có khi cụt ngủn, có khi lược từ. Câu văn cô đúc, có lúc khó hiểu, như là lời nói nén chặt nội tâm: «Một bên đường cỏ hoang và núi đóng đồn binh» (tr. 47). «Ngọn núi bắt đầu thấy cứng mình vì nghe nắng sắp về dữ dội» (tr. 87). Câu được nhiều người nhắc: «Buổi sáng mùa đông ngây ngất vào lối 10 giờ» (tr. 11). «Buổi chiều ngất ngư chưa muốn ngã» (tr. 28).

Nhưng nét mới quan trọng là không khí chung của toàn truyện Bếp lửa, không phân biệt nội dung, tư tưởng, hình thức, nghệ thuật và ngữ pháp. Thậm chí người đọc có thể hỏi: Bếp lửa, bếp lửa nghĩa là gì?

Với tôi, có lẽ thêm vài kẻ bạn, Bếp lửa là một bài hát.

Bài hát «chỉ được nghe một lần trong đời. Bài hát xưa lắm, những người thích nó kẻ đã chết, người còn sống thì quên không nhắc lại. Riêng tôi, tôi thường thì thầm với chính mình những phút cô đơn» [5] .

Có ai đó đã viết đâu đó về âm hưởng nhạc blues trong thơ Thanh Tâm Tuyền, tôi chỉ biết ông đã thiết lập quan hệ mật thiết giữa các bộ môn nghệ thuật. Điều này, ngày xưa, nhóm Tự Lực đã làm, nhưng còn hời hợt, dù rằng nhà văn Nhất Linh, nhà thơ Thế Lữ, khởi đầu là những sinh viên trường Mỹ thuật. Thời đó, họ chỉ đặt những tác phẩm nghệ thuật bên cạnh nhau. Hoạ hoằn lắm mới có bài Nguyễn Tuân về tranh Nguyễn Phan Chánh. Ở Việt Nam, không có nhà thơ sành hội hoạ như Baudelaire, cũng không có tình bằng hữu giữa các nhà thơ như Aragon, Eluard với hoạ sĩ Picasso hay Chagall ở Pháp. Thanh Tâm Tuyền thật sự muốn bắc cầu giữa các bộ môn nghệ thuật, nhất là giữa thơ và hội hoạ, và thân thiết với các hoạ sĩ Thái Tuấn, Ngọc Dũng, Duy Thanh, bài «Nhân nghĩ về hội hoạ» viết năm 1956 - hai mươi tuổi - ông đề tặng ba người ấy.

Hoạ sĩ Thái Tuấn kể lại rằng trong một cuộc triển lãm năm 1958, ông có bức sơn dầu vẽ một người đàn ông đội mũ đeo ống sáo trên vai, chừng mực nào đó, là một chân dung tự hoạ; ông không biết đặt tên là gì. Thanh Tâm Tuyền đề nghị gọi là «Hoá thân», Thái Tuấn rất tâm đắc. Ý nhà thơ: anh vẽ cái gì thì cũng là hoá thân vào bức hoạ, tranh nào rồi cũng thành chân dung hoạ sĩ. Nghe chuyện, tôi cứ nghĩ Thanh Tâm Tuyền mượn ý từ một tựa đề tiểu thuyết của Kafka. Đọc lại bài báo nói trên, tôi mới vỡ lẽ ông tham chiếu vào một chuyên khảo về nghệ thuật của Malraux Những hoá thân của Apollon-les Métamorphoses d’Apollon, 1951, và ông thường tâm đắc với Malraux.

Ông viết trong bài Nhân nghĩ về Hội hoạTôi công nhận nghệ thuật như một nghề như mọi nghề khác khi tôi hiểu rằng muốn làm được nghệ thuật người ta cũng cần học hỏi, luyện tập như tập sự bất cứ nghề gì. Đến đó thôi. Khi những nhà nghệ sĩ chân chính, để bảo đảm sự thành thực của tác phẩm, đã mang sinh mệnh chính mình ra thách đố, thì lúc ấy nghệ thuật không còn là một nghề nữa, nó là hành động siêu việt của nhân loại trong cuộc tìm kiếm đời sống chính đính» (Văn, số đặc biệt đã dẫn, tr. 78).

Đoạn trích văn này có thể tóm lược quan niệm và sự nghiệp văn thơ, nghệ thuật của Thanh Tâm Tuyền, và làm kết từ cho bài này.

Chúng tôi gửi thêm vào đó niềm kính trọng và thương tiếc khôn nguôi với một Lòng Suối Trong Xanh đã lẫn sâu vào lòng đất, trở về cõi thuỷ chung. Một dòng thơ đời đời thao thiết nuôi dưỡng Tình Yêu và Quê Hương trong mỗi chúng ta, cho mỗi chúng ta, trong thân phận làm người, làm người trong hay ngoài đất nước, luôn luôn trong nhân loại.

Trong truyện Bếp lửa, sáng tác năm hai mươi tuổi, Thanh Tâm Tuyền đã hạ một câu kết, để đời, – khi hiu hắt, khi ngời sáng, trong tâm thức thế hệ chúng tôi:

“Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng.

Đời người, vô cùng rồi cũng đến vậy thôi.
Vô cùng Thanh Tâm Tuyền.
Thanh. Tâm. Tuyền.
Thanh Tâm
Tuyền.

Ngày giỗ Trịnh Công Sơn
Orléans, 01-4-2006
ĐẶNG TIẾN

Nguồn: Văn hoá Nghệ An


______________________

[1] Thanh Tâm Tuyền, Văn, số 199, tháng 4-1972, Sài Gòn.
[2] Văn, số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền, tháng 11-1973, Sài Gòn. Nhóm Thư Ấn Quán của Trần Hoài Thư dự tính in lại nguyên văn số báo để tặng bạn đọc, liên lạc qua e-mail This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it." target="_blank">tranhoaithu@verizon.net. Hoan hô Trần Hoài Thư.
[3] Thanh Tâm Tuyền, Bếp lửa, nxb Nguyễn Đình Vượng, 1957, Sài Gòn, Chúng tôi trích đoạn từ bản này.
[4] Thanh Tâm Tuyền, Văn, Giai phẩm, tháng 6-1974, tr. 21-22, Sài Gòn.
[5] Thanh Tâm Tuyền, «Buổi sáng ngoài bãi biển», trong Khuôn mặt, tr. 98, nxb Sáng Tạo, 1964, Sài Gòn.


Chủ Nhật, 21 tháng 4, 2019

“Mộng dưới hoa” và sự tài hoa của Đinh Hùng - Phạm Đình Chương

Khi ở tuổi thanh xuân, tôi đoán chắc rằng, những thanh niên nam nữ trạc tuổi tôi đều ít ra một vài lần đã lẩm nhẩm mấy câu thơ trong bài thơ Mộng dưới hoa của thi sĩ Đinh Hùng và khi bài thơ này được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc lại càng thuộc lòng, không chỉ lẩm nhẩm như đọc “rap” mà là hát, hát một cách tình tứ khi yêu nhau, bên cạnh nhau và cả khi đã xa cách.
Đinh Hùng và Phạm Đình Chương.

Không chỉ thế, mãi đến bây giờ hơn nửa đời người tôi vẫn thường lẩm nhẩm những câu thơ này và cất tiếng hát bất chợt những câu hát này mỗi khi hoài niệm, ngập tràn cảm xúc về hình bóng của “ai đó” đã đi qua đời mình, đi một cách lặng lẽ, hay thật sự ồn ào gây ra những vết thương sâu, để nhớ mãi.

Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Tóc xanh lả bóng dừa hoang dại
Ấu yếm nhìn tôi không nói năng...

Đời sống trải ra dưới chân đi không phải chỉ có con đường gai góc. Đời sống cùng một lúc cũng mở cho người những cánh cửa mơ mộng khác hơn. Ở đó giấc mộng đẹp đầu tiên khi người niên thiếu bao giờ cũng là một đối tượng hiện thân cho tình yêu. Người con gái ấy với đầy đủ quyền năng sẽ đưa người ta đi trên cây chổi thép, tới những bến bờ hư ảo nhất hiện tại.

Gọi tình tình yêu ấy là tình đầu đời và người yêu sẽ cùng chung một giấc mộng. Đường bay của cây chổi thép sẽ không có ga nào gọi là ga cuối cùng. Đời sống trong một giấc mộng là đời sống trôi hoài không nghỉ ngơi.

Có nghĩa, trí tưởng tượng còn là một vùng thênh thang mây trắng và cái “chưa gặp” ấy được hiểu như một định mệnh còn chờ để ban phân phát cho một người nào.

Cái tuyệt vời nhất nói theo nghĩa của hạnh phúc bao giờ cũng là cái “chưa” hơn là cái “đã có”. Chưa có nên vẫn nghĩ và những cánh cửa như thế cứ mở hoài với những đôi mắt trong tim, muôn nơi và muôn thuở.

Hồi còn niên thiếu, một cậu học sinh lớp đệ tam nhiều mơ mộng và nhiều nghi ngờ, tôi yêu thơ Đinh Hùng như chính những mơ mộng và những nghi ngờ đó.

Tôi đã thuộc vanh vách bài thơ Mộng dưới hoa, chép không biết bao nhiêu lần vào giấy vở để tặng học trò con gái, những tà áo “tiểu thư” đó làm cuống quýt mắt tôi như những sợi chỉ mộng đã rối ngây thơ trong lòng. Nhưng tôi quả thật cũng chưa hiểu được cái đẹp tuyệt vời và sâu kín nhất của bài thơ mà bắt đầu là câu:

“Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng”

Sao lại “vẫn” mà không phải “đã”? Bình thường nếu ở một người khác chứ không phải Đinh Hùng câu này chắc chắn phải dùng chữ ”đã” thay vì chữ “vẫn”. Chưa gặp em tôi (đã) nghĩ rằng, có nghĩa là chưa gặp em tôi đã nghĩ rằng có nàng thiếu nữ đẹp như trăng, như hoa, hay đẹp như bất cứ hình dung từ nào khác.

Điều này còn nằm trong dự đoán, mà dự đoán có thể đúng mà cũng có thể sai. Bởi vì nàng thiếu nữ khi chưa gặp, tôi đã nghĩ đẹp như trăng nhưng khi tôi gặp rồi thì nàng thiếu nữ có thể sẽ đẹp một cách khác. Đó là điều hoàn toàn dành cho sự bất ngờ.

Ở đây, Đinh Hùng đã dùng chữ “vẫn”, tức là tôi đã xác định rõ ràng rồi dù chưa gặp, người thiếu nữ ấy cũng vẫn đẹp như trăng. Chữ “vẫn” quá tuyệt vời và điều này càng chứng tỏ rằng không phải chỉ là một thi sĩ làm thơ hay, mà còn là một thi sĩ tài hoa.

Dĩ nhiên không phải căn cứ vào một bài Mộng dưới hoa do Phạm Đình Chương phổ nhạc mà thôi. Thơ của Đinh Hùng nhiều lắm, đó là Đường vào tình sử hành trang của những người niên thiếu đi vào tình yêu lần đầu.

Sống với tình yêu thứ nhất là sống với người trong mộng, cõi mộng đầy tràn ánh trăng của độ mười sáu, mười bảy. Và Phạm Đình Chương cũng không chỉ phổ nhạc duy nhất một bài Mộng dưới hoa, những Nửa hồn thương đau, Dạ tâm khúc, Buồn đêm mưa, Người đi qua đời tôi. Đó cũng toàn là thơ phổ nhạc.

Nhưng với Mộng dưới hoa Đinh Hùng và Phạm Đình Chương như hiểu nhau hơn ở một độ nồng của thơ và một độ cao của nhạc. Thơ, nhạc bay bổng, câu liền câu, ý liền ý đến nỗi nếu không thuộc thơ Đinh Hùng thì nhạc của Phạm Đình Chương sẽ làm ta thuộc thơ Đinh Hùng, che những nốt nhạc ấy lại, nó là một bài thơ trọn vẹn của một thi sĩ.

Nhạc phổ thơ như thế mới nói được hết cái tài hoa của cả thi sĩ lẫn nhạc sĩ.

Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Tóc xanh lả bóng dừa hoang dại
Âu yếm nhìn tôi không nói năng...

Đó là bốn câu đầu của bài thơ (và nhạc). Đó cũng là sự nghi ngờ, lạnh bạc của một giấc mộng. Em đã hiện đến, vẫn đẹp như tôi nghĩ. Tóc xanh là bóng dừa hoang dại, âu yếm nhìn tôi không nói năng. Không sai vào đâu được nỗi ngỡ ngàng đó của một khoảnh khắc thời gian dừng lại với hai người gặp nhau trong giấc mộng. Hò hẹn bao giờ qua những cái nhìn âu yếm ấy?

Câu hỏi hoàn toàn không được trả lời vì đó là câu hỏi của một hạnh phúc tràn đầy như những sợi máu vừa căng lên làm nóng hổi trái tim ta.

Nếu bước chân ngà có mỏi
Xin em dựa sát lòng anh
Ta đi vào tận rừng xanh
Vớt cánh rong vàng bên suối...

Yêu nhau là nương tựa vào nhau những khi đổ nát, tan vỡ. Tôi vẫn nghĩ như thế nhưng tình đầu không bao giờ là một hạnh phúc đến với ta rồi ở mãi. Thế nên tôi vẫn chưa, hay không còn dịp nào để nghe những bước chân mệt mỏi của em ghé sát vào tôi và chúng ta đưa nhau vào tận rừng xanh vớt cánh rong vàng bên suối. Khi người yêu đã xa cách nghìn trùng tôi mới bàng hoàng với bốn câu (thơ hay nhạc) đó?

“Cánh rong vàng” đã tượng trưng cho một hạnh phúc mong manh. Có cặp tình nhân nào vớt được “cánh rong vàng” bên suối ấy chưa? Chưa, nó hoàn toàn là một giấc mộng.

Bước khẽ cho lòng nói nhỏ
Bao nhiêu mộng ước phù du
Ta xây thành mộng nghìn thu
Núi biếc sông dài ghi nhớ
Ôi chưa gặp nhau như đã ước thề
Mây hồng giăng tám ngả sơn khê
Bóng hoa ngả xuống bàn tay mộng
Và mộng em cười như giấc mê.

Tôi đã đánh mất tình yêu đầu tiên từ lúc nào. Thế nên khoảng thời gian yêu nhau hãy còn bàng hoàng lắm, và cơn mộng của Đinh Hùng - Phạm Đình Chương chụp xuống thành một bản trường ca, hát hoài qua những năm tháng, ngày tháng lênh đênh. Làm gì còn được một câu “Bước khẽ cho lòng nói nhỏ” để nói với nhau?

Chính điều đó đã làm cho tôi hiểu hơn lúc nào, bao giờ tình yêu cũng chỉ là một bóng hoa ngã xuống bàn tay mộng, và mộng em cười như giấc mê.

Quả thật, sống bây giờ là sống cho những cơn mộng đã xế mất ngang đầu, hụt hẫng bể dâu và có lẽ, cũng đã tan tành để mãi mãi đau xót, hối tiếc lại khoảng ngày nào, “chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng”.

Thi sĩ Đinh Hùng nổi tiếng rất sớm trong làng văn, làng báo Hà Nội, ông là em rể của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Thi sĩ Đinh Hùng nổi tiếng về thơ nhưng tác phẩm đầu tay của ông lại là tập văn xuôi Đám ma tôi được NXB Tân Việt in năm 1943 (ông sinh ngày 3-7-1920).

Trước đó Đinh Hùng đã có thơ đăng trên các báo: Hà Nội tân văn của Vũ Ngọc Phan, Giai phẩm đời nay của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Khi bài thơ Kì nữ ra đời và sau đó được nhà thơ Thế Lữ giới thiệu trong truyện Trại Bồ Tùng Linh đã đưa tên tuổi Đinh Hùng lên đỉnh cao và khẳng định ông là một thi sĩ tài hoa với thi ngôn và thi tứ đầy ma lực. Điều này thể hiện rõ nhất trong thi phẩm Mê hồn ca (1954).

Tháng 8-1954, khi vào Nam, Đinh Hùng cộng tác với nhật báo Tự do của ông Phạm Việt Tuyền, cùng thời với Tam Lang, Mặc Đỗ, Mặc Thu, Như Phong... Khi nhật báo Tự do đình bản, Đinh Hùng cộng tác với đài phát thanh Sài Gòn, phụ trách ban thi ca Tao Đàn, một chương trình ngâm thơ nổi tiếng lúc bấy giờ và từng tạo nên những giọng đọc thơ nức tiếng như: Hồ Điệp, Quách Đàm, Tô Kiều Ngân, Hồng Vân, Hoàng Oanh...

Trong thời kỳ làm báo ở miền Nam, thi sĩ Đinh Hùng còn ký nhiều bút danh khác như Thần Đăng khi làm thơ trào phúng, Hoài Điệp Thứ Lang khi viết tiểu thuyết, đặc biệt là tiểu thuyết dã sử như Cô gái gò Ôn khâu, Đao phủ thành Đại La. Năm 1961 Đinh Hùng cho ra đời tập thơ Đường vào tình sử đoạt giải “Văn chương và thi ca” năm 1962.

Năm 1967 Đinh Hùngcho ra mắt tuần báo Tao Đàn thi nhân nhưng báo chỉ ra được 2 số thì ông mất vì bệnh ung thư gan lúc đang nằm điều trị tại Bệnh viện Bình Dân (5h sáng ngày 24-8-1967) khi chỉ mới 48 tuổi.

Nhạc sĩ Phạm Đình Chương (sinh năm 1929) tại Bạch Mai, Hà Nội, cũng là một nhạc sĩ tài hoa, nổi tiếng rất sớm, không chỉ là một nhạc sĩ mà ông còn là ca sĩ với tên Hoài Bắc, chủ trương thành lập ra ban hợp ca Thăng Long (1951) nổi tiếng ở Hà Nội với các thành viên đều là người trong gia đình gồm: Hoài Bắc (Phạm Đình Chương), Hoài Trung (Phạm Đình Viêm), Thái Hằng (Phạm Thị Quang Thái), Thái Thanh (Phạm Thị Băng Thanh).

Trước đó, những năm đầu kháng chiến, Phạm Đình Chương cùng với các anh em trong gia đình như vừa nêu đã gia nhập Ban Văn nghệ quân đội ở Liên khu IV và đi ca hát phục vụ chiến trường.

Thời kỳ này Phạm Đình Chương đã sáng tác những bản nhạc có giai điệu hùng tráng, tươi trẻ đầy hào khí như: Ra đi khi trời vừa sáng, Thanh niên tiến lên, Bài ca tuổi trẻ, Mười thương, Sáng rừng, Hò leo núi, Hội trùng dương...

Năm 1953 nhạc sĩ Phạm Đình Chương kết hôn với ca sĩ Khánh Ngọc rồi cùng gia đình vào Nam năm 1954. Sau khi vào Nam, gia đình nhạc sĩ Phạm Đình Chương đều tiếp tục làm nghệ thuật, Ban hợp ca Thăng Long biểu diễn ở các phòng trà, vũ trường.

Nhạc của Phạm Đình Chương cũng chuyển hướng sang phong cách trữ tình, lãng mạn, sâu lắng và đầy tâm trạng như: Xuân tha hương, Buồn đêm mưa, Màu kỷ niệm, Xóm đêm, Mưa Sài Gòn mưa Hà Nội... Và một ca khúc không thể không nhắc đến mỗi dịp xuân về của nhạc sĩ Phạm Đình Chương là Ly rượu mừng.

Khi cuộc hôn nhân với ca sĩ Khánh Ngọc tan vỡ, nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã có những ca khúc đau xót, da diết như: Nửa hồn thương đau (phổ thơ Thanh Tâm Tuyền), Người đi qua đời tôi (phổ thơ Trần Dạ Từ)...

Riêng với việc phổ thơ, nhạc sĩ Phạm Đình Chương được đánh giá là một trong số rất ít nhạc sĩ phổ thơ tài hoa đã chuyển hóa thơ thành đôi cánh bay cao, giúp thơ hay hơn, nhiều màu sắc hơn, nâng hồn vía thơ bay bổng hơn để được nhiều người nhớ và thuộc hơn qua nhạc. Tài hoa phổ thơ của Phạm Đình Chương xếp ngang hàng với nhạc sĩ Phạm Duy.

Quả vậy, một số bài thơ khác của các nhà thơ được ông phổ nhạc đã khẳng định điều này như: Lệ đá xanh (phổ thơ Thanh Tâm Tuyền), Đôi mắt người Sơn Tây (phổ thơ Quang Dũng), Đêm nhớ trăng Sài Gòn (phổ thơ Du Tử Lê)... Và bài Mộng dưới hoa (phổ thơ Đinh Hùng) là một ví dụ.

Sau năm 1975 nhạc sĩ Phạm Đình Chương định cư tại Mỹ, ông mất ngày 22-8-1991.

TỪ KẾ TƯỜNG
Nguồn: ANTG


Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2019

Bích Khê - Giấu vàng trong gió thu

Lịch sử thi ca hiện đại ít có thi sỹ nào được như Bích Khê. Chỉ trong vòng 10 năm, dường như để bù lại những gì thưa thớt của ngày tháng cũ, quê hương Quảng Ngãi đã tổ chức hai cuộc hội thảo lớn, tập trung đông đảo các nhà thơ và học giả đương thời tụ hội nhân kỷ niệm 90 năm và 100 năm ngày sinh. Bích Khê và Thơ Bích Khê như được chiếu sáng từ mọi phía của quá khứ và hiện tại bằng sự mẫn cảm tinh tế của các nhà thơ cũng như sự sâu sắc bất ngờ của các nhà lý luận. Vậy mà, khi gấp lại đời thơ đoản mệnh ấy, nhìn vào khuôn mặt trẻ trung, đôi mắt thuần túy và tượng trưng, đôi mắt mà chàng thi sỹ đã dành tới 248 câu thơ trong bài thơ Châu như để tự nói về mình.
Nhà thơ Bích Khê

Đôi mắt đẹp câm trong sắc tượng biến ra châu nguyên vẹn cốt thiên đường, vẫn thấy hình như chàng đang muốn nói điều gì. Một điều đang được chàng giấu kín trong những dòng thơ siêu thực mang hình dáng phương Tây mà lại phả ra cái phong nhã cổ điển của thi ca phương Đông. Đôi mắt mở to. Đẹp và thật buồn như thấp thoáng giữa những dòng Thu mê mải mà đa cảm mang tên gọi Bích Khê. Đành xem lại Tinh Huyết, Tinh Hoa một vài lần nữa để ngẫm ngợi mà vẫn mơ hồ chưa nhận được ra. Nghĩ vậy. Học theo cách làm Thi Thoại của người xưa, tôi theo đợt gió mùa đầu tiên trong năm từ Bắc vào Nam mới khởi sự trước đó hai ngày và dừng lại ở Thu Xà, quê hương Bích Khê để lan tỏa cái se lạnh muôn năm không hiểu nổi của mùa Thu xứ Bắc. Dường như mùa Thu Hà Nội với bộ xiêm y mờ ảo sương mù đi qua biển rộng vừa mới lên bờ vào được đến đây. Cái mảnh đất mà hơn nửa thế kỷ trước Bích Khê đã gọi là làng cũ buồn thu quạnh, thành phố ngưng mạchấy mà giờ tưởng chừng nó vẫn cũ kỹ như xưa sau bao nắng mưa và ly tán của cuộc đời này. Có khi còn cũ hơn ngày trước bởi hôm nay lê thê gió lạnh từ biển thổi vào. Con đường ngắn Thu Xà hai bên những ngôi nhà gạch cũ thấp nhỏ với dăm bảy hiệu tạp hóa theo kiểu bây giờ, xô lệch những khung cửa sổ nhỏ vẫn mở nhìn ra đường từ dạo ấy chưa bao giờ khép lại. Không còn đâu dấu tích của một thương cảng nhộn nhịp trên bến dưới thuyền. Thi sỹ Trần Dần có lần viết: Ôi! những thành phố cố tình vắng vẻ… để khói hè. Với lịch sử của Thu Xà, khi người Việt đầu tiên đến được đây theo đội quân của Hồ Hán Thương vào năm 1402 có thể viết được rằng: Ôi! phố thị cố tình cũ kỹ… để tha hương. Nhà thờ họ Lê Quang ở bên trái gần cuối con đường. Trong một ngõ nhỏ giữa vườn cây vằng lặng. Đó là một kiểu kiến trúc theo lối cổ có hàng hiên ở trước. Chính giữa bàn thờ tổ tiên phía trên có bức hoành phi đỏ viết 4 chữ nho vàng ẩm thủy ân nguyên. Phía sát tường đầu đốc bên phải đặt bàn thờ có ảnh cha mẹ Bích Khê và chị Ngọc Sương thời còn trẻ. Phía đốc nhà bên trái là bàn thờ Bích Khê. Trên tường treo ảnh Bích Khê với đôi mắt nghĩ nhiều nhiều hơn là nhìn quen thuộc. Trên bàn, đằng sau bát hương đặt pho tượng bán thân bằng đá đen tạc hình Bích Khê trẻ trung thanh lịch. Tôi bảo anh em dâng lên bàn thờ một lẵng hoa hồng và thắp ba nén hương trầm lầm dầm khấn không rõ bằng việc chắp nối đôi dòng thơ Tinh Huyết. Khói hương trong nhà đã lên cao. Ngoài vườn, hoa Huỳnh Anh loài thân gỗ mới trồng còn thấp nhỏ đã kịp bung ra những quả chuông vàng rực rỡ như một sự tình cờ giữa chiều chợt mưa chợt nắng. Trong một vài góc nhỏ bụi hoa Oải hương lắc rắc tím với mưa làm như Bích Khê chưa chịu chú ý đến chúng. Phía bên phải khu vườn, người ta lấy đá xếp thành chiếc đàn tỳ bà nằm nghiêng từ phía bầu đàn cao khoảng 5 mét thoai thoải đến phía dưới theo cần đàn mà các phím được xếp bằng những bậc đá đều đặn. Tất cả làm thành hình quả lê bổ đôi. Ngay dưới bầu đàn tỳ bà là thư viện Bích Khê, tạo nên cảm giác như nằm ẩn dưới đất. Trước lối vào thư viện, một cây ngô đồng chắc cũng mới được trồng lá to đến ngọn. Đôi chiếc đã rớm vàng. Chúng tôi nhờ người cháu họ gọi Bích Khê bằng ông đưa đi viếng mộ.

Đường lên mộ nhà thơ vốn là đường lên hội quán ngày xưa. Thuở ấy con đường đã được Bích Khê miêu tả siêu thực lắm. Mấy nàng lai khách vẫn buồn mơ và những chàng trai rõi hững hờ. Ở đấy nàng lai khách đa tình vẫn mong. Anh có khi nào trở lại để nghe khóm lan thơm và đêm về trên mái ngói tiếng nhành nhãn muộn cánh rơi bay. Đường lên hội quán vẫn còn đây với những bụi tre dày chắc để ai đó khỏi tiếc nuối giống như đã không thấy trúc khi về thôn Vĩ Dạ. Hội quán hoang tàn tự bao giờ đã trở thành bãi tha ma mặc cho cây dại mọc bơ phờ bao quanh những nấm mồ xây. Xúm xít đứng dưới mưa. Mưa lã chã rơi không ngớt. Trời tự dưng tối thẫm lại. Mộ Bích Khê nằm giữa đó. Trước mộ dựng một phiến đá rửa màu hồng hình chữ nhật cao độ gần một mét. Trên có mái bằng rộng hơn. Kiểu như mũ bình thiên. Ở giữa phiến đá rửa gắn vào một phiến hoa cương nhỏ hơn viền vàng xung quanh, trên đó có dòng chữ in màu đỏ: Nơi yên nghỉ thi sỹ Bích Khê – Lê Quang Lương 24.3.1916 – 17.1.1946. Phía dưới là 4 câu thơ bằng chữ thường màu xanh. Nguyên văn như sau.

Thân bệnh: Ngô vàng mưa là rụng
Bút thần sống lạnh ánh sao rơi.
Sau nghìn năm nữa trên trần thế
Hồn vẫn về trong bóng nguyệt soi.

Tôi đốt một nắm hương cháy đỏ trong mưa cắm lên trước mộ. Vừa đi khỏi độ chừng 300 bước, thì trời bỗng nhiên lại rạng. Lộ ra một khoảng xanh mờ trên những tán lá cây còn chưa hết ngờ ngàng để mặc cho những giọt nước của dĩ vãng còn lại rơi xuống đất. Nghe như thi sỹ Bích Khê vừa mới gảy khúc tỳ bà mùa Thu từ thế kỷ trước làm nên tiếng thơ mới lạ trong phong trào Thơ Mới 1930-1945. Tiếng đàn khổ đau trong mê sảng và trần trụi kiếp người, phổ trong bản nhạc của tượng trưng và siêu thực bằng tinh huyết của thi sỹ tài danh vang lên nghẹn ngào mà thanh thoát tiếng vàng của thượng đế và trần thế không lẫn với bất kỳ ai trên thi đàn Việt Nam hiện đại.

Người đời đã dành nhiều danh hiệu cao quý tưởng như không thể gì nói hơn được nữa. Nhất là những lời nhận xét ấy lại của những nhà thơ tài danh cùng thời với Bích Khê. Hàn Mặc Tử gọi Bích Khê là thi sỹ thần linh. Chế Lan Viên bảo Bích Khê là một đỉnh núi lạ. Mặc dù thi sỹ họ Chế đánh giá Bích Khê cao hơn Nguyễn Nhược Pháp vì Pháp kể một câu chuyện có thể có, còn Khê tạo ra một điều khó có thể có. Khi so sánh với Hàn Mặc Tử thì bảo. Khê làm thơ mà không bị thơ làm như Hàn Mặc Tử. Câu này Chế Lan Viên có ý chê nhiều hơn khen. Tôi chờ đợi ở nhà thơ lớn nhất thế kỷ 20 không phải sự tỉnh táo rạch ròi của một nhà lý luận mà nhẽ ra phải mê đi nhiều hơn nữa của một thi sỹ khi viết về người bạn cùng thời đại với mình. Mặc dù… mặc dù… Chế Lan Viên viết giới thiệu Hàn Mặc Tử hồi cuối năm 1987 và viết về Bích Khê vào tháng 2 năm 1988 đã quá ư thận trọng khi đề cập đến hơi hướng thời cuộc của hai người bạn thơ, khiến ta không khỏi chạnh lòng. Họ Chế viết: Một bài thơ của Khê lấy tên Duy Tân. Có dính dáng gì không đến ông vua yêu nước trùng tên. Đọc lại Duy Tân thấy hai câu kết Bích Khê viết: Thơ lõa thể! Giai nhân tuần trăng mật, Nữ thần ơi! ta nô lệ bên người thì thấy vua Duy Tân không gợi lại điều gì ở đây. Có lẽ Chế Lan Viên viết điều này cũng là việc cực chẳng đã và muốn làm tốt hơn cho bạn của mình. Bởi vì, những năm 1980, có người nhân việc dịch ra tiếng Việt một số nội dung tác phẩm của André Gide mà Bích Khê còn chưa xuất bản, đã mang cái tên ít người Việt Nam biết đến ở tận bên Ngalatư phiên âm gọi là Tờrốtkít gán vào cho thi sỹ Bích Khê. Nếu quả như vậy mà người ta đọc Tóm tắt những bài giảng về lịch sử triết học của F.Heghenra tiếng Nga cho dễ hiểu trong Bút kí triết học thì Lê Nin cũng có thể bị quy là Hêghengit cũng nên. Cả thế kỷ 20, người Việt Nam thao thức đi tìm triết lý sống cho mình và phải trả giá không biết bao nhiêu để đến được ngày nay?

Từ thế kỷ trước đến thế kỷ này, người đời vẫn mải miết đi tìm những bí mật chàng thi sỹ bé nhỏ ở đất Thu Xà đã cất giấu vẻn vẹn trong 2 tập thơ mà trên con đường ấy người ta vẫn còn có điểm chưa phải đã gặp được nhau.

Có ý kiến có thể vì quá yêu Bích Khê và mong muốn chỉ ra rõ ràng những cung bậc phát triển đã đặt vị trí của Thơ Bích Khê ở giai đoạn thứ hai của phong trào Thơ Mới 1930-1945 hoặc Bích Khê cũng như Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử đã đi xa hơn Thơ Mới. Hoặc trong Thơ Mới chưa có Bích Khê. Dù theo ý nghĩa gì, nói ra điều này có cần thiết hay chăng?

Từ gần một thế kỷ nay, hầu như tất cả các nguồn dư luận đều khẳng định phong trào Thơ Mới là sản phẩm của cuộc gặp gỡ giữa văn hóa Phương Đông và Phương Tây, trên một nền tảng xã hội với sự hình thành đông đảo tầng lớp thị dân khắp trong Nam ngoài Bắc là bạn đọc chia sẻ hào hứng và cổ vũ nhiệt thành cho Thơ Mới. Các nhà thơ Bàn thành tứ hữu – Trường thơ Loạn nằm trong sự gặp gỡ Đông Tây đó. Họ sinh thành trong khuôn viên Thơ Mới. Trường thơ Loạn thực chất là trường phái siêu thực bắt nguồn từ chủ nghĩa tượng trưng mà cốt lõi của nó đặt phi lý tính lên trên lý tính, trạng thái tâm hồn trong tiềm thức,  không phân biệt ranh giới giữa thực và mộng; Đồng thời tiếp thu tinh hoa của thi ca Phương Đông. Đặc biệt là thơ Đường. Hoài Thanh khi làm quyển Thi Nhân Việt Nam 1941 thật có lí khi ông xếp liền một dải Hàn Mặc Tử - Chế Lan Viên - Bích Khê, mặc dù Bích Khê không phải là một trong Bàn thành tứ hữu. Với Quách Tấn và Yến Lan hai người còn lại, Hoài Thanh xếp họ ở khu vực khác. Vì vậy, khi Bích Khê xuất hiện bằng một Tinh Huyết đã không phải là người đến sau. Mặc dù có ảnh hưởng và được Hàn Mặc Tử khích lệ. Quách Tấn hồi những năm 1960-1967 khi viết cuốn Đời Bích Khê(Xuất bản ở Sài Gòn năm 1971) đã để tâm so sánh ba thi sỹ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê là những người cùng hàng. Bích Khê đã góp vào một khuôn mặt tiêu biểu cho Trường thơ Loạn khi Quách Tấn đã phân tích quá viên mãn ý thơ Sọ người của ba tác giả. Hơn nữa, nhìn vào thời điểm xuất hiện các tập thơ. 1935 Mấy vần thơ - Thế Lữ. 1936 Gái quê - Hàn Mặc Tử. 1937 Điêu tàn - Chế Lan Viên. 1938  Thơ Thơ - Xuân Diệu. 1939Tinh Huyết - Bích Khê. Tiếng Thu - Lưu Trọng Lư. 1940 Lỡ bước sang ngang - Nguyễn Bính. Lửa thiêng - Huy Cận. 1941 Mùa cổ điển - Quách Tấn… thì Bích Khê nằm ở giai đoạn 2 chăng? Phong trào Thơ Mới chỉ trong khoảng 10 năm đã sinh thành và lớn lên vượt bậc, không hề đứt đoạn, đã như một cuộc cách mạng lớn nhất của thi ca thế kỷ 20 với một chủ thể trữ tình khao khát tự do cá nhân, nỗi cô đơn và khắc khoải của tình yêu đôi lứa cùng sự hoài niệm đau thương về những bến bờ xưa của kiếp người với thiên nhiên kỳ ảo mà nét chủ đạo là mùa thu tuyệt bích buồn. Bích Khê xứng đáng như là một gương mặt tiêu biểu của phong trào ấy, một trong những người tiên phong của cuộc cách mạng thi ca lớn nhất thời hiện đại. Vì vậy Bích Khê không thể đứng ngoài cuộc cách mạng ấy. Nhóm Dạ đài vào hồi 1945-1946 ảnh hưởng Trường thơ Loạn có lẽ ở bình diện khuynh hướng sáng tác hơn là giai đoạn phát triển thi ca của Bích Khê.

Về nhận định cho rằng Tinh Hoa từ bỏ thể nghiệm Âu hóa để trở về khai thác các đặc tính thi ca Đông phương; điểm này có hơi khác với Hàn Mặc Tử khi viết lời giới thiệu Tinh Huyết-1939. Bích Khê hoàn toàn là Baudelaire – tưởng đã đi đến tận cùng của vườn hoa nghệ thuật, nhưng chàng còn mở rộng biên giới để thấy chàng là một thi sỹ Đông phương, lời thơ của chàng nhuốm đầy màu sắc của các thi gia đời Đường… Như thế sự kết hợp Đông Tây đã rộn ràng trong Tinh Huyết. Tập di cảo mang tên Tinh Hoa được gia đình Bích Khê trao cho Quách Tấn từ hồi 1960-1967 và chỉ được giới thiệu một số bài. Chưa bao giờ nó được in ra. Theo Chế Lan Viên, bản thảo Tinh Hoa mà chị Ngọc Sương giao cho Sở văn hóa Nghĩa Bình hồi những năm 1980 thấy còn thiếu đôi đoạn, đôi câu. Mãi đến năm 1997, tức là sau 51 năm Bích Khê mất mới được in lần đầu. Nhìn vào Tinh Hoa in đầy đủ năm 2016 thấy rõ ràng số lượng bài thơ làm theo thể Đường luật thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt và cả 5 bài lục bát truyền thống: Ngón giai nhân. Hai tiên nữ nhớ Lưu Nguyễn. Mỹ tửu ca. Huế đa tình. Băng tuyết. Nhưng tiếc thay, các bài thơ làm theo thể thơ cũ nhìn chung không để lại ấn tượng gì đặc biệt trong cách tân và đổi mới thi ca cũng như không có bài thơ nào nằm trong thơ hay của tập. Cái hồn cốt Bích Khê trong Tinh Huyết đã phai nhạt khá nhiều. Năm 1967, Quách Tấn cho là Tinh Hoa rất có giá trị, giá trị cao hơn Tinh Huyết một bậc. Điều khẳng định ấy của Quách Tấn là một sự tâm giao. Bởi Mùa cổ điển của ông gồm 59 bài thơ theo thể thơ Đường luật. Như một tuyên ngôn. Quách Tấn lẳng lặng dành tình yêu trong sáng của mình cho những giá trị Á Đông. Mặc cho sự kịch liệt của tranh luận Thơ Mới - Thơ Cũ thời đó. Có lẽ Quách Tấn đã tìm thấy sự đồng điệu của mình với Bích Khê khi Tinh Hoa có nhiều bài theo thể Thơ Đường.

Bích Khê là bích khê nhất phải ở trong Tinh Huyết. Tập thơ được ông cho xuất bản năm ông còn sống. Tinh Huyết có nhiều bài thơ hay. Nhạc. Mộng Cầm Ca. Tỳ bà. Tân hôn. Thi vị. Hiện hình. Nghê thường. Tranh lõa thể. Bàn chân. Nàng bước tới và có thể Châu - ở nhiều đoạn trong phần 3. Tinh Hoa có khoảng 5 bài. Duy Tân. Xuân tượng trưng. Tiếng đàn mưa. Làng em. Nấm mộ. Trong đó 2 bài được Hoài Thanh chọn vào Thi Nhân Việt Namthể theo yêu cầu của Bích Khê trong 2 bức thư ngày 7/1/1941 và 25/10/1941 gửi Hoài Thanh. Nếu 2 bài thơTiếng đàn Mưa và Làng em là minh chứng cho thành tựu trở về thi ca phương Đông thì thật khiêm tốn biết chừng nào. Đáng lưu ý là khi bắt đầu khời nghiệp thi ca Bích Khê đã làm thơ Đường luật hàng trăm bài. Tinh Huyết rõ ràng là tập thơ xác định vị trí Bích Khê trên thi đàn Việt Nam trong những năm 30-40 của thế kỷ trước. Không đợi đến khi Tinh Hoa ra đời. Theo như Quách Tấn, đã có người chê thơ cũ của Khê không hồn, và khen thơ mới của Khê chung chiếu cùng Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên thật cân xứng. Ngoại trừ, chàng Bích Khê Đăng lâm trong Tinh Hoa để thêm một lần xuất hiện cái nắng nhấp nhô siêu thực mà cổ điển trên bầu trời ven biển miền Trung Việt Nam. Mục tử năm ba tiều thổi điệu. Nằng vàng cao thấp, núi rung rinh.
           
Chế Lan Viên đã quá tỉnh táo hay chăng khi không nương nhẹ chỉ ra thẳng thừng những gì là của Tây phương. Quả măng cụt của Khê, ta biết rằng đấy là quả lựu của Valéry. Valéry hóa thân. Con quạ trên mộ Khê là con quạ của Edgar Poe, của thơ Mallarme bay đến. Da thịt rồi xác thịt, rồi xác chết trong anh, nguyên là Baudelaire. Điều này không có gì là mới khi chính Bích Khê đã nói từ 1939. Baudelaire! Người là vua thi sỹ. Sự giao thoa của các nền văn hóa khó tránh khỏi việc để lại những vết khấc. Cũng như việc chuyển sang dùng lại nhiều thể thơ cũ Đường luật và lục bát chưa đủ chứng minh cho tiềm năng sáng tạo của việc tìm về văn hóa Á Đông. Điều kỳ lạ trong 3 nhà thơ nổi tiếng nhất của Trường thơ Loạn có những bài thơ hay nhất, lại không phải, hoàn toàn không phải do siêu thực và tượng trưng thuần túy đã được điển hình. Hàn Mặc Tử với Mùa xuân chínvà Đây thôn Vĩ Dạ. Chế Lan Viên với Trên đường về, Xuân, Chiến tượng… để lại những câu tuyệt bút cho đời. Ở đó, người ta rung lên không phải vì đâu là Tây phương, đâu là Đông phương. Đó là những câu thơ tươi sáng như lọc ra từ ánh sáng trời, từ cây cỏ tự nhiên mang màu sắc thời gian. Bích Khê cũng thế. Chàng tự nhận là Phượng Sồ không bằng Phượng Long Hàn Mặc Tử. Những câu thơ tuyệt bích mà dung dị lạ thường. Nó là của Bích Khê.Bài hát đầu tiên của chàng về Mộng cầm ca là hát về hương lúa. Siêu thực mà bình dị như thấy được bên bờ của khúc tâm tình.Đây bát ngát và thơm như sữa lúa. Nhựa đương lên. Sức mạnh của lòng thương.
           
Cảnh đẹp đêm thu ta thường gặp trăng trên mọi nẻo đường gió bụi mà lại là trăng của tối tân hôn. Ô lạ! làm sao thương nhớ quá. Đêm nay trăng ngủ ở bên đường. Để từ đó cái sự khóc trong tối tân hôn của người thục nữ thật trong trắng, đẹp lạ lùng chẳng biết thực hay mơ. Và đêm nay khóc cho nên mới, lộ một sông trăng chảy lệ vàng. Trăng trên nẻo đường đời đến đây đã trở thành trăng siêu thực mất rồi mà ta chẳng có hay? Vẻ đẹp của giai nhân hiện dưới bóng hằng nga; vẻ đẹp sang trọng mang màu sắc cung đình mà tinh tế, mà đầy huyễn hoặc.Áo xiêm ăn đứt màu trăng sáng. Gió nép mình nghe tiếng chạm vàng. Vẻ đẹp của Tinh Huyết được Bích Khê mê hoặc thường trong sự giao hòa giữa ảo và thực, giữa hiện sinh và thần linh. Bích Khê miêu tả vẻ đẹp khi người tình bước tới tất cả như vô hình dồn lại ngây ngất vị phong trần. Nàng bước tới như sông trăng chảy ngọc. Cả thời gian dồn lại ở bàn tay. Ai giam lỏng một vì sao giữa mắt. Quả nhân duyên mũi mẫm vị phong trần. Vẻ đẹp của người thiếu nữ với Bích Khê là sự tinh khiết vô cùng được ghép lại bằng thơ và nhạc, bằng trăng và gió của thể giới tự nhiên. Gió đi chới với trong khung trắng. Lộ nửa vần thơ nửa điệu ca. Tôi ráp lại xem ồ sự lạ. Một người thiếu nữ hiện trong trăng. Đôi khi vẻ đẹp của con người được Bích Khê miêu tả chỉ bằng giai điệu của nhạc, dùng cái siêu hình để hiện ra cái hữu hình. Bỗng khúc dương cầm nấc tiếng thu. Bỗng đôi mắt ngọc hiện xanh mờ. Và châu và báu và sinh khí. Nức nở tan thành vạn giọt thơ.
           
Trong phong trào Thơ Mới 30-45, chưa ai dám công khai thành lời như Bích Khê tôn vinh vẻ đẹp của cái dâm, cái cuồng và đằng sau những từ chát chúa ấy, chàng thi sỹ ngợi ca vẻ đẹp của cuộc sống con người. Vấn đề ở đây không phải là ở một, hai câu thơ có sạn mà là ở quan điểm thẩm mỹ hướng tới. Văn chương bình dân cũng như bác học từ xưa đến nay chưa bao giờ ngoảnh mặt với tình dục. Bởi vì đó là mặt cơ bản của đời sống và sinh tồn loài người. Một nền văn học mà chối bỏ tình dục thì đâu còn chủ nghĩa nhân văn. Nó không phải hạ thấp hoặc xỉ nhục con người mà là ngợi ca con người tự do với đầy đủ ý nghĩa của từ đó. Trong vấn đề này, dường như Hàn Mặc Tử nhân tình thế thái và ít khắt khe hơn Chế Lan Viên. Hàn Mặc Tử viết. Ở Sọ người, cũng như ở Tranh lõa thể sự trần truồng dâm đãng đã nhường lại cho ý vị nên thơ của hương, của nhạc, của trăng, của tuyết. Quả nhiên là một sự thanh tao đến ngọt lịm cả người, cả thơ. Tôi không hiểu có mối liên hệ gì về nối ám ảnh của những ngọn tháp gầy mòn vì mong đợi suốt dải đất miền Trung mà ở bên trong thờ phụng vẻ đẹp trần tục của đàn ông, đàn bà đã đổ bóng siêu hình xuống thơ của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên và đặc biệt của Bích Khê để ba chàng thi sỹ đã hình thành một trường phái thơ về vẻ đẹp tình dục của con người. Đó là cái hằng sống của con người. Và hình như nó chưa một lần lặp lại trong thi ca thế kỷ 20.
           
Thi sỹ Trần Dần trong Vở bụi viết hai năm liền hồi 1983-1984 chỉ được bốn trang theo kiểu nhật kí thơ ở câu thứ năm có viết. Ai đem giấu vàng trong gió thu. Duy nhất chỉ có một câu hỏi như thốt lên rồi bỗng dừng ngay lại. Không trả lời. Không giải thích. Mấy năm nay tôi lặn lội trong thi sử và thế giới thi ca để mong tìm câu trả lời mà chưa bao giờ thấy trọn vẹn. Nhất là mỗi khi mùa thu từ xa lắm chẳng biết ở đâu mà sáng ra đã thấy về ngay trước hiên nhà. Có lẽ trên thế gian này chỉ có một loài duy nhất làm được điều đó? Vâng – Thi sỹ là người giấu vàng trong gió thu. Từ ngàn đời nay họ đã thay mặt loài người, mang tinh huyết của trần thế, của thượng đế, một thứ vàng quý nhất, tinh túy nhất của cuộc sống tinh thần phổ vào cây đàn muôn điệu thi ca giấu trong gió thu để thời gian không bao giờ quên lãng sự trong sáng đến vô cùng của tình yêu giữa con người với con người, vẻ đẹp vĩnh cửu của tâm hồn con người luôn hướng tới chân thiện mỹ dù có phải trải qua bao nhiêu thử thách, đau đớn, cô đơn, mất mát, buồn vui không hẹn trước để như lời hẹn ước muôn năm bỗng chốc hiện về sắc vàng không phải ảm đạm mà sáng bừng hi vọng và thăm thẳm tình đời mỗi khi gió thu thổi vàng sông núi.
           
Nhìn vào đôi mắt Bích Khê, phải chăng điều chàng muốn nói với hậu thế không phải là Lời tuyệt mệnh mà một điều gì thiêng liêng gửi lại cho đời? Dường như chàng đã hỏi câu hỏi mà Trần Dần sau gần thế kỷ mới hỏi lại và Bích Khê đã tự mình trả lời cho khách đa tình mùa thu vô hạn thường mỗi khi trở về dưới biếc chập chờn hương rằng chàng đã gửi vàng trong gió thu qua tiếng tiêu vàng?Mùa thu ám ảnh nhà thi sỹ. Muốn thỏi tiêu vàng giữa khói sương.
           
Sắc vàng là bản vị của thơ Bích Khê. Tinh Huyết có 33 bài có tới 17 bài ngân lên những cung bậc của sắc vàng. Tinh Hoa ít nhất cũng có 8 bài nói về điều đó. Đó là sắc của hồn thu đi lạc. Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng. Của hồn thu đi lạc ở trong mơ.
           
Đó là một trong năm lần cùng Hồ Xuân Hương ngực để trần một đêm lên cung trăng vấn nguyệt. Trăng mùa thu sáng như ngọc xây vàng trên cành lá. Ô trời hôm nay sao mà xanh. Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành.
           
Đó là vàng lay một trời thanh khí mười phương đa tình, ngây ngất trong hương thơm của nhạc, của màu.Hồn bay! hồn bay! hồn bay!Ngửa nghiêng tắm mát vàng lay, nhạc hường.
           
Đó là muôn vẻ màu vàng trải khắp các dòng thơ Bích Khê. Sắc vàng giấu trong gió thu bây giờ hiện ra như tiếng vàng của thượng đế. Đẹp mải muốt trong sự già nua trần trụi của thế thái nhân tình.Tiếng vàng tiếng ngọc xào xạc chen ra. Đêm rót lệ, trăng ôm niềm tóc bạc.

Bài thơ Thi Vị là tuyên ngôn của Bích Khê về bản vị vàng giấu trong gió thu hiện lên bởi lá vàng, trăng vàng, hoa vàng, sao vàng, đêm vàng… Tất cả đều rời xa vì tất cả đều rơi theo giọng đàn rung, nghẹn, rụng rồi câm tiếng và bẻ phím cho sự mất mát, chia ly không bao giờ gặp lại của một cuộc tình. Nhưng đặc sắc hơn cả và là sự trả lời đầy đủ hơn cả về việc thi sỹ giấu vàng trong gió thu để tình yêu con người bất tử trong màu vàng muôn thuở cô đơn của mùa thu không giới hạn phải kể đến Tỳ bà. Bài thơ này có lẽ xứng đáng hơn cả để Hoài Thanh lựa chọn vào Thi Nhân Việt Nam. Nhưng chắc là Hoài Thanh đặt lên trên hết mong muốn của Bích Khê muốn giới thiệu 2 bài không nằm trong tập Tinh Huyết đã in. Tỳ bà được người ta nói đến nhiều ở nhạc điệu kỳ lạ của nó trong 4 khổ thơ 16 dòng đều là thanh bằng. Nó đã được phổ nhạc và đến thế kỷ 21 người ta vẫn thường hay hát.Tỳ bà bày tỏ tình yêu của Bích Khê với người tình xưa đã quên lời thề để chàng phải đi tìm lại trong du dương tiếng nhạc ở lầu cung thương, ở chốn Đào nguyên trong mộng tưởng và trong lòng người qua khúc Tỳ bà mùa thu được dạo lên bởi nhịp tương tư, để nói với nàng rằng thi sỹ chẳng bao giờ thôi yêu nàng. Màu vàng của mùa thu ẩn trong hao gầy của những bông hoa trên đoạn đường cả trong mơ và trong thực nơi người xưa không trở lại. Chàng thi sỹ cứ đi tìm, đi mãi qua cả 4 mùa, từ mùa xuân khi buồn còn lưu trên cây đào hơi xuân rồi buồn lang thang qua cây tùng đến chốn ở của đông quân. Chàng đi tiếp nhưng chẳng bao giờ gặp lại người tình xưa nữa. Chỉ gặp mùa thu buồn mênh mông giữa vàng rơi, vàng rơi không bao giờ dừng lại chỉ vương một chút buồn trên cây ngô đồng thuần túy và tượng trưng của thi ca phương Đông.
Ô! hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông.
             
Hoài Thanh gọi đây là những câu thơ hay bậc nhất của Việt Nam. Dường như ta chỉ gặp cái bơ vơ ấy của người thi sỹ có một lần trong cô đơn mùa thu như vậy và chàng đã đem thứ vàng quý nhất ấy của đời mình giấu trong gió thu để câu thơ nói về nó trở nên bất tử. Một lần thôi. Không bao giờ tìm lại nữa. Lặp lại nữa. Nhiều cái thuộc về Bích Khê mai này có thể tàn tạ như những giọt nước cuối cùng của dĩ vãng đã tự nguyện rơi vào buổi chiều hôm ấy ở Thu Xà ngay bên mộ Bích Khê. Nhưng thứ vàng giấu trong gió thu ở hai câu thơ này sẽ không bao giờ mất.
           
Rời Thu Xà tôi bay ngược ngọn gió mùa thu mong manh để trở về. Trên chuyến bay ấy, giữa đông đảo những người khách trẻ tuổi rối rít nào những ba lô, máy tính bảng và điện thoại thông minh, tôi như kẻ già nua cô đơn và lạc lòng vì có ai trong số họ đi tìm vàng không có lượng gửi trong gió thu? Có phải thi sỹ bây giờ đang tự mình rút lui vào ngõ nhỏ, phố nhỏ như một Thu Xà giữa các đô thị khang trang. Nhường mặt tiền phố lớn cho doanh nhân sáng láng và thành đạt. Họ có rất nhiều vàng. Không phải trừu tượng mà có cân. Có lượng. Nhưng gió thu không có chỗ để giấu loại vàng ấy. Thi ca là vàng gửi được trong gió thu, giấu những điều thầm kín nhất của loài người để những giá trị nhân văn bất tử.

KHUẤT BÌNH NGUYÊN
Nguồn Văn nghệ số 47/2018


BÀI ĐĂNG MỚI NHẤT

Nguyễn Phan Quế Mai: Hãy nói về cuộc đời

Xe vút đi trên những con đường cao tốc, còn tôi thì ngồi đó, lặng người trong giai điệu trầm bổng của Khúc Thụy Du. Mùa hạ California nở bun...