Nhà văn Anh Đức
1. Tôi nhớ khi đoàn Ban Chấp hành Hội Nhà văn đến Huế, giới
thiệu có nhà văn Anh Đức, cả Hội trường ĐHSP đứng dậy và vỗ tay hồi lâu. Không
biết Anh Đức có nhớ không, còn tôi với tư cách là một bạn đọc thì tôi nhớ vô
cùng kỷ niệm ấm lòng ấy. Không nhớ sao được khi mà cả một thời chúng tôi được sống
với chị Tư Hậu, với chị Sứ qua trang sách giáo khoa và với điện ảnh. Không nhớ
sao được ngòi bút tả mái tóc chị Sứ trở thành “suối tóc của hai mươi bảy tuổi đời
con gái, vừa mượt vừa dày, gồm muôn sợi bền chặt rủ từ đỉnh đầu bất khuất đó, rủ
chấm xuống sát đôi gót chân”. Lúc đó chúng tôi tưởng đó không riêng gì những
nhân vật của Anh Đức, mà cả miền Nam bất khuất kiên cường. Cho nên chúng tôi
yêu văn Anh Đức như yêu cả miền Nam anh hùng.
Anh Đức, tên thật là Bùi Đức Ái, sinh ngày 5 tháng 5 năm
1935 tại xã Bình Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Bùi Đức Ái rời gia đình,
vào chiến khu của lực lượng kháng chiến ở miền Nam Việt Nam hoạt động từ khi
còn trẻ. Ông tham gia viết văn từ lúc mới là “một cậu bé” mười bảy, mười tám tuổi.
Ông đoạt giải thưởng văn học năm vừa tròn mười chín tuổi. Sau này nhớ lại, ông
viết: “Tôi hơi bị bất ngờ, và có nhiều người cũng bất ngờ, vì trong buổi lễ
phát giải diễn ra ở một địa điểm trong vùng giải phóng thuộc Cà Mau, khi tôi bước
lên nhận giải, cử tọa nhận ra tôi mới chỉ là một cậu bé”[Theo 6; tr. 308]. Anh
Đức bất ngờ vì mình còn trẻ quá. Năm 1953, ông được điều về làm ở báo Cứu quốc
Nam Bộ. Người đầu tiên được coi là đã phát hiện ra năng khiếu văn học của Bùi Đức
Ái là nhà văn Đoàn Giỏi. Sau đó, Bùi Đức Ái tập kết ra miền Bắc. Trong thời
gian ở miền Bắc, ông viết với bút danh Bùi Đức Ái. Thời gian này ông được gặp
và tiếp xúc với nhiều nhà văn lớn cùng thời tại Hà Nội. Theo phân công của Hội
Nhà văn Việt Nam, mỗi nhà văn có kinh nghiệm giúp đỡ, truyền đạt kinh nghiệm, đọc
và góp ý bản thảo cho một cây bút trẻ tập kết. Người được giao kèm cặp Bùi Đức
Ái là nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Ngoài ra, Bùi Đức Ái đi thực tế nhiều nơi, viết
một số truyện ngắn nhưng không thật nổi bật cho đến khi ông gặp bà Nguyễn Thị
Huỳnh, một phụ nữ từng hoạt động trong lực lượng kháng chiến ở miền Nam Việt
Nam. Nhờ cuộc gặp gỡ này, ông viết Một truyện chép ở bệnh viện. Tập truyện được
đón nhận rộng rãi và trở thành một trong những tác phẩm làm nên tên tuổi của
ông sau này.
Năm 1962, Bùi Đức Ái trở lại chiến trường miền Nam Việt
Nam ngay trong đợt đầu tiên của văn nghệ sĩ. Các nhà lãnh đạo văn hóa tư tưởng
và văn nghệ có vẻ đánh giá rất cao khả năng của Anh Đức. Đích thân Trưởng ban Tổ
chức Trung ương miền Bắc Việt Nam Lê Đức Thọ đã gặp Anh Đức và dặn dò:
"Vào trong đó cậu nên tập trung thời gian mà sáng tác, đừng làm việc hành
chính mất thời gian, việc đó nhiều người làm được". Trở lại miền Nam Việt
Nam, ông bắt đầu lấy bút danh mới là Anh Đức. Trải qua thời gian rèn luyện nghề
văn tại miền Bắc Việt Nam, khi tiếp cận với thực tế cuộc chiến ở chiến trường
miền Nam, Anh Đức viết một loạt hồi ký, được chú ý nhất là loạt ký sự Bức
thư Cà Mau. Dưới hình thức trao đổi văn học qua thư với nhà văn Nguyễn
Tuân, Anh Đức phản ánh thực tế sống và chiến đấu của lực lượng kháng chiến tại
Cà Mau và nhiều vùng khác của miền Nam Việt Nam. Cũng trong thời gian này, ông
đến Kiên Giang và viết tác phẩm có lẽ là nổi tiếng nhất của ông, tiểu thuyết Hòn
Đất. Hòn Đất đã mang về cho Anh Đức Giải thưởng văn học
Nguyễn Đình Chiểu.
Sau năm 1975, Anh Đức về sống ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Ông viết một số truyện ngắn như Người khách đến thăm vườn nhà tôi, Cái
bàn bỏ trống, Miền sóng vỗ... Ở các cương vị làm quản lý, trong giai đoạn
chiến tranh, Anh Đức từng nắm giữ các chức vụ: tổng biên tập tạp chí Văn nghệ
giải phóng, ủy viên Ban thư ký Hội nhà văn Việt Nam. Sau năm 1975, có thời gian
Anh Đức là ủy viên Ban thư ký Hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh; tổng biên tập
tạp chí Văn, ủy viên Đảng đoàn các khóa 2 và 3, đại biểu quốc hội khóa 7...Thời
gian cuối đời Anh Đức cư ngụ tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất tại nhà
vì tuổi cao bệnh nặng vào ngày 21 tháng 8 năm 2014.
Văn phong của Anh Đức được đánh giá là điềm đạm và thanh
thoát. Từ những truyện ngắn đầu tay của ông, nhà văn Đoàn Giỏi từng dự đoán ông
sẽ còn tiến xa trong văn nghiệp. Với đề tài chính của các nhà văn thời bấy giờ:
cuộc chiến tranh Việt Nam. Anh Đức được đánh giá là không thi vị hóa cuộc chiến
mà tìm ra nét đẹp của con người trong hoàn cảnh tàn bạo nhất của chiến tranh.
Ông cũng ca ngợi tình người, sự anh dũng của lực lượng kháng chiến ở miền Nam
Việt Nam.
Các tác phẩm mà ông để lại gồm có: Biển động (Tập truyện
ngắn, 1952), Lão anh hùng dưới hầm bí mật (Truyện ký, 1956), Một chuyện chép ở
bệnh viện (Bút ký, 1958), Biển xa (Truyện ngắn, 1960), Bức thư Cà Mau (Bút ký,
1965), Hòn Đất (Tiểu thuyết, 1966), Giấc mơ ông lão vườn chim (Truyện ngắn,
1970), Đứa con của đất (Tiểu thuyết, 1976), Miền sóng vỗ (Truyện ngắn, 1985).
Các giải thưởng mà ông đã được gồm có : Giải thưởng văn học Cửu Long (1952), Giải
nhất truyện ngắn của tạp chí Văn nghệ (1958), Giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu
(truyện, 1965), Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm (2000).
2. Nhắc tới Anh Đức, nhiều người nghĩ tới ông là một nhà
văn Nam bộ. Tác phẩm của ông được mọi người nhắc tới là một truyện dài, mà ông
gọi bút ký, thực ra, đó thực ra là một tiểu thuyết. Đó là tiểu thuyết Một chuyện
chép ở bệnh viện. Trong cuốn sách này, Anh Đức được đánh giá thành công trong
việc xây dựng nhân vật cách mạng, mà trước hết là hình ảnh người phụ nữ. Sau
này khi được hỏi về hình ảnh người phụ nữ xuyên suốt trong tác phẩm của mình,
Anh Đức đã trả lời: “Tôi đã cố gắng không những miêu tả tính nết, tư tưởng và
tình cảm của họ mà còn miêu tả hình dạng khuôn mặt, mái tóc, đôi bàn tay của họ
nữa. Có thể tôi tả chưa đầy đủ về họ nhưng những dòng nào viết về họ bao giờ
tôi cũng nâng niu, trân trọng… Trong sáng tác của tôi, nhân vật thể hiện nhiều
nhất, quen thuộc nhất là người phụ nữ và Một chuyện chép ở bệnh viện là một
truyện dài đầu tiên tôi viết về một nhân vật phụ nữ có một cuộc đời, một quá
trình phát triển tương đối có hệ thống và cặn kẽ nhất [Theo 6; tr. 331 – 332].
Quả đúng như vậy, ở tiểu thuyết này, tác giả dựng lên hình ảnh một cô gái mồ
côi nghèo khổ, từng bước chị đến với cách mạng. Chị được miêu tả là một người
phụ nữ miền Nam hiền lành, đảm đang, yêu chồng, thương con; nhưng với kẻ thù chị
là người cương quyết. Bao nhiêu đau đớn, tủi nhục, bao nhiêu khó khăn, gian khổ
chị đều vượt qua hết. Chị tập kết ra miền Bắc, hai con chị được ra nước ngoài học
tập. Chị trở thành công nhân dệt giỏi. Chị phải nằm viện vì bị bệnh. Được sự
chăm sóc nhiệt tình của cả đội ngũ y, bác sĩ bệnh viện, chị đã vượt qua cơn hiểm
nghèo. Cuộc sống đầm ấm, yêu thương mà chị đã quên mình vì nó đang chờ đón chị.
Một chuyện chép ở bệnh viện đã khắc họa thành công hình ảnh
người phụ nữ miền Nam dịu hiền, giàu lòng yêu thương và đức hi sinh. Chị rất
mãi giữ một lòng kiên trung với cách mạng, một lòng chịu thương, chịu khó với
gia đình, chồng con.
Một nhân vật phụ nữ khác của nhà văn Anh Đức phải kể đến
là chị Sứ, nhân vật chính trong tiểu thuyết Hòn Đất của ông.
Cuốn sách này được nhà phê bình văn học Hoài Thanh cho là “Hòn Đất vẫn đúng là
một hòn ngọc”[6; tr.96]. Chị Sứ là con đẻ của đất Hòn và là “niềm hãnh diện của
xóm làng”. Ở chị Sứ, tình yêu quê hương gắn liền với tình yêu thương những người
thân, bà con hàng xóm láng giềng, yêu thương đồng chí, đồng bào. Nổi lên trên hết
những phẩm chất tốt đẹp của chị là tấm lòng vị tha, sống vì người mình yêu
thương. Dù rất yêu thương con, nhưng trước tình cảnh suy kiệt của anh em đồng
chí bị thương, chị đã trút nửa ca nước cuối cùng dành riêng cho con để nấu
cháo. Trong một lần ra suối lấy nước, chị bị giặc bắt. Địch định lợi dụng tình
cảm của chị, đưa chị micro để chị gọi anh em trong hang ra hàng. Nhanh trí, chị
đã dùng micro để dặn anh em trong hang đừng uống nước suối có thuốc độc, đừng đầu
hàng giặc và hỏi tin con. Vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp của đời sống tinh thần bên
trong đã được nhà văn thể hiện một cách sinh động. Chúng ta không ngạc nhiên
khi tác phẩm này và các tác phẩm khác như Giấc mơ ông lão vườn chim, Bức
thư Cà Mau (trích đoạn) của ông từng được đưa vào giảng dạy ở chương trình văn
học phổ thông. Hòn Đất được coi là một trong những tiểu thuyết viết về chiến
tranh tiêu biểu thời bấy giờ với những nhân vật rất sống động sau này được lấy
làm kịch bản cho phim truyện Chị Sứ.
Ngoài vẻ đẹp của chị Sứ, tác phẩm còn xây dựng thành công
một số hình ảnh phụ nữ khác như Má Sáu (mẹ của chị), Quyên, bà Cà Xợi (mẹ
thằng trung úy Xăm), cô Cà Mỵ, chị Hai Thép, thím Ba Ú…Tất cả đều hiện lên những
nét đẹp tương ứng với vai trò tích cực của họ trong tác phẩm.
Anh Đức cũng xây dựng khá thành công là nhân vật cụ già.
Đây cũng là hình ảnh thường thấy nhất trong các tác phẩm của nhà văn Anh Đức.
Dường như những ông lão đã già không còn đủ sức để đánh giặc nữa, không thể viết
nên một cái gì đó mới mẻ được, nhưng qua cách viết của nhà văn Anh Đức thì
khác, ông luôn thổi vào các nhân vật của mình một cái hồn rất riêng. Vậy con
người Nam bộ trong truyện ngắn Anh Đức là những ai? Đó là những ông già như ông
Tám Xẻo Đước trong truyện ngắn Đất, ông Tư Vườn Chim trong truyện
ngắn Giấc mơ ông lão vườn chim…
Trong truyện ngắn Đất của mình nhà văn
Anh Đức đã xây dựng hình ảnh ông Tám, một ông già 70 tuổi, gân guốc, xù xì, có
chiếc mũi tinh nhạy và phát hiện rất nhanh vết tích của thú rừng. Ông Tám đã gắn
bó với đất bằng sức khai phá của bản thân và bằng cả sự nhớ ơn những người đi
trước. Ông Tám phải đương đầu với kẻ thù nguy hiểm, đó là bọn giặc Mỹ .
Ông đã không nghe lời dụ dỗ của giặc mà đầu hàng. Khi biết không thể làm gì hơn
ông đã dũng cảm lao vào bọn giặc và hy sinh. Hình ảnh ông Tám phóng lưỡi mác
bén ngót cắm phập giữa nhà như một lời tuyên thệ với đất đai, với ông bà tổ
tiên. Và hình ảnh ông bị bắn vào đầu nhưng vẫn xông thẳng tới kẻ thù như là
hành động cụ thể nhất hiện thực hóa lời thề đó. Ông quyết “một tấc không đi, một
li không rời” cũng chính vì tự thấy mình có nhiệm vụ làm gương cho đồng bào, giữ
lấy mảnh đất này cho đời sau.
Tinh thần xả thân của ông Tám đã được nhà văn Anh Đức
miêu tả như là một vị anh hùng của cách mạng mặc dù ông chỉ là một
người nông dân. Những phẩm chất cách mạng cao đẹp trong tính cách của ông Tám,
là hình ảnh của rất nhiều cụ già Nam Bộ khí phách, trọng nghĩa tình.
Trong Giấc mơ ông lão vườn chim nhà văn
Anh Đức đã xây dựng hình ảnh một ông già sáu mươi thật khó quên. Một ông già
đen đủi ở trần, đầu buộc khăn xước, tấm lưng cháy nắng, ông đã phải chịu nhiều
đắng cay cuộc đời. Cũng như ông Tám và nhiều người nông dân Nam Bộ khác, ông Tư
là người nghèo khổ và là một người có những người con đi cách mạng, con trai của
ông đi bộ đội hi sinh hồi đánh Pháp. Con dâu cũng hi sinh. Cháu trai đi giải
phóng. Đứa cháu dâu chưa cưới cũng vào du kích. Trong câu chuyện khi giặc Mĩ
đem bom đốt rừng, phá vườn chim, ông Tư vô cùng đau khổ và đã nói: "Cái
chi tao dứt bỏ được chứ cái vườn chim này với mấy thằng bộ đội thì tao không dứt
ra được đâu!". Ông tiếc nuối nhìn cái vườn chim bị thiêu cháy, và cháy lan
sang khu rừng bên cạnh, ông thể hiện cảm xúc của mình bằng cách đứng chết trân,
nhìn rừng cây ngổn ngang đang dần cháy rụi, nhìn rừng cây ngổn ngang xác của
các loài động vật, chim chóc, những cành cây cháy xém đổ ngổn ngang, có cây bị
trơ trọi gốc, ông tỏ ra vô cùng căm phẫn và xót xa khi cánh rừng nơi bầy chim
cư ngụ vị cháy, bởi với ông đó cũng như cuộc đời thứ hai của mình. Tuy ông lão
đã trải qua nhiều mất mát đau thương, những thăng trầm của cuộc đời nhưng ông vẫn
không kìm nén được cảm xúc của mình. Nơi mảnh đất này là nơi ông tìm niềm vui
cho chính mình. Ông nghe tiếng chim hót trên đầu, nhìn ngắm chúng bay lượn, niềm
vui của ông giản dị và gần gũi với người nông dân, ông coi bầy chim là bạn, ông
xem vườn chim là một khoảng trời của riêng mình, và là một phần cuộc sống của
ông. Khi vườn chim bị cháy cũng giống như lúc ông đang bị hủy hoại chính mình,
ông được khắc họa là người từng chữa cháy rừng, nhưng nay chính vườn chim của
ông lại bị đốt cháy mà ông lại không thể làm gì,chỉ có thể nhìn bầy chim chết dần
và những cánh rừng bị cháy dần,ông thấy trong mình dâng lên một cảm giác đau đớn
tột cùng. Ông phải dùng tay chống ngực mình, dường như ông không tin vào những
gì đang xảy ra xung quanh nữa,ông nói như người mộng du, nỗi đau đớn trong ông
dâng lên đến tột cùng. Đây không phải nơi chôn nhau cắt rốn của ông nhưng đây
là nơi đã cho ông đời sống thực sự sau những ngày tháng đói khổ phiêu dạt. Anh
Đức đã thật xuất sắc khi miêu tả hình ảnh ông Tư đứng bất động nhìn đàn chim
nháo nhác bay trong ánh chiều nhập nhoạng, bàn tay cào lên ngực.
Đằng sau một tình yêu của ông lão có cuộc đời nghèo khổ
có phải chỉ là một sự tiếc nuối bởi vườn chim bị cháy. Chắc chắn không phải như
vậy, mà vườn chim và những cánh rừng là nơi che chắn các căn cứ bí mật của những
người hoạt động cách mạng, ông lão vườn chim không ngẫu nhiên gắn bó với cái vườn
chim lâu đến như vậy,mà ông đang mang một nhiệm vụ rất quan trọng đó là chăm lo
cho sự an toàn của các chiến sĩ, của những người hoạt động cách mạng, đó là một
nhiệm vụ hết sức cao cả.
Ông lão trong Giấc mơ ông lão vườn chim là một hình ảnh đại
diện cho những người dân Nam Bộ. Họ tuy nghèo khổ nhưng không đầu hàng số mệnh,
không nghe lời dụ dỗ của giặc, họ biết vượt qua khó khăn, sẵn sàng hi sinh bản
thân và gia đình để phục vụ cho cách mạng, mong muốn có một đất nước hòa bình.
Cái chết của ông là chết vì sự sống, nó khiến người được tiếp thêm sức mạnh để
chiến đấu và chiến thắng. Họ được miêu tả với vẻ đẹp của người lao động, tấm
lòng của họ luôn thủy chung với mảnh đất quê hương và ý chí kiên cường bất khuất
trước kẻ thù. Họ sẽ không sợ hãi khi đối đầu với sức mạnh quân giặc, ông Tám Xẻo
Đước và ông Tư Vườn Chim có chung một tâm nguyện giữ đất giữ rừng. Đó chính là
đất nước, là máu thịt Tổ quốc, là một phần thân thể không thể tách rời. Ông Tám
hy sinh để giữ đất. Ông Tư chiến đấu vừa để giữ rừng vừa đánh đuổi quân xâm lược.
Họ có sự khác biệt trong số phận hai nhân vật nhưng cùng một lý tưởng cao cả.
***
3. Khi nói về phong cách của Anh Đức các ý kiến có khác
nhau, nhưng đều thống nhất với nhau. Đó là nhà văn vừa mang tính trữ tình, vừa
mang tính lãng mạn, Chu Nga trong một tiểu luận của mình Phong cách trữ
tình trong sáng tác của Anh Đức đăng lần đầu trên Tạp chí Văn học số
2. 1975 đã viết: “Tuy nhiên, phải nhận rằng, ở Anh Đức màu sắc trữ tình ấy có
phần đậm nét hơn cả… Ở Anh Đức cái màu sắc trữ tình đậm nét đến mức đã trở
thành phong cách” [Theo 6; tr. 200]. Còn theo Phan Cự Đệ trong bộ sách khá nổi
tiếng của ông, bộ Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại,thì Anh Đức còn màu sắc lãng mạn.
Ông viết: “Còn những nhà văn thuộc dòng phong cách lãng mạn ngày nay thì hướng
về mặt lý tưởng, mặt đẹp đẽ và anh hùng của cuộc sống… Những đặc điểm trên
chúng ta đều thấy thể hiện trong tiểu thuyết và một số truyện ngắn của nhà văn
Anh Đức” [Theo 6; tr. 222].
Không khó để thấy được nét lãng mạn nét trữ tình trong
các tác phẩm của nhà văn Anh Đức. Hầu hết các tác phẩm của ông đều có một nét
lãng mạn, nét trữ tình rất riêng, chẳng hạn như trong tiểu thuyết Hòn Đất. Anh
Đức đã cho chúng ta thấy một chị Sứ là một người phụ nữ sống với những lý tưởng
anh hùng,có một cách sống cao cả, dù là trong hoàn cảnh nào họ cũng không chịu
đầu hàng quân thù. Trong cái hoàn cảnh u ám nhất và kinh hoàng nhất, cái hiện
thực đen tối của cuộc sống, lại được phủ lên bởi những chi tiết nhiều tính lãng
mạn và thi vị như vậy. Anh Đức cũng rất khéo léo khi thêm vào tác phẩm của mình
các yếu tố thiên nhiên nhiều màu sắc, giàu chất thơ, giàu nhịp điệu tạo cho các
tác phẩm của mình có một sức lôi cuốn nhất định. Có thể nói ông đã lồng ghép
nhiều yếu tố lãng mạn, trữ tình vào trong tiểu thuyết.
Nhà văn Anh Đức sáng tác những tác phẩm của mình trong sự
khó khăn, thiếu thốn của cuộc chiến mang lại, cũng chính vì điều này mà càng
làm nổi bật được tính chất trữ tình trong các tác phẩm của ông. Xem xét một số
tác phẩm của một số nhà văn khác ta thấy yếu tố lãng mạn và trữ tình cũng khác
Anh Đức. Trong một số bài bút ký gửi cho nhà văn Nguyễn Tuân, ông nói đến vùng
quê Cà Mau, kể về những khó khăn vất vả mà những người nơi đây đang phải trải
qua, kể những thắng lợi của những người chiến sĩ giành được.Ở chỗ nào cũng đậm
nét trữ tình lãng mạn của ông.
Chất trữ tình còn nằm ở những tình cảm của nhà văn Anh Đức
dành cho nhân dân, ông luôn suy nghĩ cho hoàn cảnh đất nước bị chia đôi, trong
lòng ông hai miền Nam Bắc là một, đều là Tổ quốc Việt Nam thân yêu, ông tin tưởng
những thắng lợi của người dân miền Nam sẽ là một sự động viên cổ vũ cho phong
trào cách mạng ở miền Bắc và ngược lại sự thắng lợi ở miền Bắc sẽ làm động lực
cho người dân miền Nam có thêm niềm tin và sức mạnh để chống lại kẻ thù.
Một nét rất đáng lưu ý văn chương của Anh Đức có cái
phong vị của vùng đất Nam bộ. Cái phong vị đó bàng bạc khắp các tác phẩm của
ông. Từ cách dùng ngôn ngữ, khung cảnh, sinh hoạt, phong tục đến diện mạo tính
cách, tâm lý nhân vật. Văn Anh Đức lột tả con người, thiên nhiên Nam bộ rất sắc
sảo. Ông đã miêu tả chị Sứ, má Sáu, cô Quyên, bà Cà Xợi, chị Hai Thép, thím Ba
Ú… những tính cách rất Nam bộ. Chảng hạn như tả Quyên nghe đồn là Ngạn phản bội,
khai cho địch căn cứ cách mạng thì “Quyên tối tăm cả mặt mày.Cô có cảm tưởng
như bị cây gậy của ai bất thình lình phang trúng ngang lưng”(Hòn Đất).Rồi tác
giả viết tiếp: “Trong Quyên có trái măng cụt ngọt thau, có những cây tre vàng nắng,
có lá cành lê ki ma xanh um, có tiếng nói yêu thương âu yếm của các mẹ già cùng
tiếng bập bẹ ngây thơ của các em bé. Trong Quyên như chứa đựng đủ mọi thứ đó. Từ
tiếng xào xạc của rừng dừa, tiếng sóng biển vỗ bên bãi cát, tiếng thét của đoàn
người đấu tranh, ánh đuốc bập bùng, tiếng khóc và tiếng cười vui. Quyên là cô
nhưng đồng thời cũng là anh em đồng chí khác. Mối yêu thương riêng tây này gắn
liền với Ngạn với cái quý là cách mạng, là cuộc sống mới giành lại được ở miền
đất nằm biển cả này”.
Hay khi tả cảnh sắc thiên nhiên, thì vẫn là cảnh Nam bộ.
Ví như ông tả đêm Tháp Mười trong truyện ngắn Khói như sau: “Đêm Tháp Mười, tôi
cứ ngỡ bầu trời cao hơn chỗ khác. Cánh đồng mênh mông đám chìm trong sương mù,
rì rầm như sóng biển. Ấy là cái tiếng nói muôn thuở của gió lúa qua bờ cỏ.
Tháng tư rồi Tháp Mười vẫn chưa mưa. Ban ngày nắng chói chang, đêm đến cánh đồng
gió mát rượi, lộng gió. Không bị ngăn cách bởi cây cối, gió thổi rất mực hào
phóng(…). Đêm Tháp Mười thật là kỳ ảo, với câu chuyện cô gái nọ, với ánh lửa đốt
đồng và tiếng cỏ xào xạc trong gió. Tất cả những cái ấy đến trên cánh đồng yên
tĩnh đang nhuốm màu sắc lãng mạn trước buổi bình minh hé ra rực lửa” (Khói). Có
thể nói các đoạn văn vừa trích đều mang đậm chất Nam bộ. Nhà nghiên cứu văn học
Trần Hữu Tá trong Từ điển văn học cho rằng ông là “một trong
những cây bút văn xuôi trữ tình giàu chất thơ” [Từ điển văn học, bộ mới, Nxb Thế
giới, 2004, tr.44]. Đó quả là một nhận xét đúng.
Nhà văn Anh Đức là một nhà văn miền Nam. Tuy vậy ông từng
có thời gian công tác ở miền Bắc, chắc cũng vì vậy mà ông có một cảm tình đặc
biệt dành cho nơi này. Trong hầu hết những tác phẩm, nhất là ở những bút ký, và
những tác phẩm dưới hình thức thư của mình ông nhắc tới miền Bắc với tấm lòng
nhớ thương và ngưỡng mộ. Nếu để ý kĩ, trong các tác phẩm của ông là cái thể hiện
không chỉ miền Nam mà còn nói đến miền Bắc, có thể thấy được nhiều nét trữ tình
như vậy trong tác phẩm Hòn Đất của ông, tác phẩm tiêu biểu cho văn xuôi thời kì
này.
Sống 79 tuổi đời, với hơn 50 năm cầm bút, Anh Đức đã đi
trọn đời mình. Một đời cầm bút, một đời viết văn. Nhiều tác phẩm của ông đã để
lại những nhân vật ở giữa cuộc đời này. Nhiều nhân vật của ông có bóng dáng thực
như chị Tư Hậu là chị Tư Huỳnh ở Nha Trang vừa mới mất; hay chị Sứ có bóng thật
là chị Phan Thị Ràng, Anh hùng lực lượng vũ trang ở Hòn Đất, Kiên Giang… Bao
nhiêu chuyện ông kể đều gắn với cách mạng, gắn với hai cuộc kháng chiến của
dân tộc ta. Cho nên là nhà văn cũng là nhà đồng hành với cách mạng.
PGS.TS. LÊ
TIẾN DŨNG
Theo NVTPHCM
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Phan Cự Đệ (1974), Về
phong cách lãng mạn của Anh Đức, in trong “Tiểu thuyết VN hiện đại”, Nxb Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
2. Hà Minh Đức (1991), Hòn
Đất của Anh Đức,in trong sách Tác phẩm văn học,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Trần Văn Giàu (1972),
Hòn Đất, một bước tiến mới của văn học cách mạng miền Nam, in trong sách “10
năm Văn học chống Mỹ”, Nghiên cứu và phê bình, Nxb Giải phóng, 1972.
4. Thiếu Mai (1962), Về “Một
truyện chép ở bệnh viện” và “Biển xa” của Bùi Đức Ái, Tạp chí Nghiên cứu Văn học
số 12/1962.
5. Kim Quyên (2014),
Tiếc thương nhà văn Anh Đức, Báo Văn nghệ TP. HCM, số 316 ra ngày 28/8/2014.
6. Nhiều người viết (2006),
Anh Đức về tác gia và tác phẩm, Bùi Việt Thắng tuyển chọn và giới thiệu, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
7. Hoài Thanh (1969), Hòn Đất,
Hòn Ngọc,in trong sách “Văn học miền Nam trong lòng miền Bắc”, Nxb KHXH, Hà Nội.
8. Bùi Việt Thắng (2006),
Anh Đức nhà văn đồng hành cùng thời đại cách mạng, in trong sách “Anh Đức
về tác gia và tác phẩm”, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Trần Hoàng Vy (2014), Đến
Hòn đất viếng mộ chị Sứ và nhớ Anh Đức… Báo Văn nghệ TP. HCM, số 316 ra ngày
28/8/2014.