Nhà văn Nguyễn Bình Phương
1. Một thực tế đang xảy ra theo đúng quy luật, là đội ngũ
những nhà văn trực tiếp tham gia chiến tranh hiện nay đã vơi đi một cách nhanh
chóng. Kèm đó cũng xuất hiện một đội ngũ nhà văn mới viết về đề tài này, dĩ
nhiên là theo cách khác. Chiến tranh trong các tác phẩm văn học trước đây phần
đông do người trong cuộc viết vì thế chủ yếu dừng ở mức kể chuyện chiến tranh,
và sự thiên lệch là không tránh khỏi, thậm chí nó còn trở thành thế mạnh cuốn
hút. Ngay cả hiện nay, sự trở lại của những tác phẩm văn học phi hư cấu, được
đón nhận nồng nhiệt cũng là hiện tượng xuất phát từ thói quen thưởng thức những
tác phẩm chất phác đầy xúc cảm thiên lệch. Mặc lòng, tác phẩm phi hư cấu vẫn chỉ
dừng lại ở tính chất tư liệu dù nó có thể làm thỏa tính tò mò về những sự kiện
đã từng chói lói giờ đang khuất chìm.
Thế hệ các nhà văn hậu chiến tiếp cận chiến tranh theo
cách khác. Đó là những câu chuyện gián tiếp, những hậu quả của cuộc chiến, những
số phận nghiêng lệch vì chiến tranh, những tâm hồn lảo đảo bởi tác động của hủy
diệt và điều đáng sợ hơn là những rạn nứt về các phía. Cái nhìn của thế hệ sinh
sau chiến tranh khi viết về chiến tranh, nói một cách công bằng, có độ bình
tĩnh hơn, khách quan hơn, thậm chí dồi dào tính cảm thông hơn, mặc dù tính chân
thực có thể bị hạn chế. Với họ, thể hiện qua tác phẩm, chiến tranh là cuộc sát
hạch nhân tính, là cái cớ để nhìn cho thấu các trạng thái hoàn cảnh số phận
cũng như tình cảm mỗi cá nhân.
Tuy vậy, cần phải thấy rõ một thực trạng, đó là việc cùng
với sự giãn cách trong cảm quan với đề tài nhạy cảm này, xuất hiện yếu tố mà
chúng ta gọi là tinh thần giải thiêng. Người chiến thắng không còn được miêu tả
như trang anh hùng toàn thiện, toàn mĩ nữa, mà được nhìn theo chiều góc khác, gần
gụi hơn với những chứng này, tật nọ, cũng yêu ghét như mọi cá nhân bình thường
khác. Điều ấy không những không hạ thấp đối tượng, trái lại còn làm gia tăng
tính thuyết phục cho phẩm chất anh hùng và nó tạo ra độ sâu sắc nhất định không
chỉ cho bản thân tác phẩm.
Xu hướng giải thiêng có mặt tích cực, nó kéo lịch sử xích
gần lại với mỗi cá nhân ở thì hiện tại, khiến cho người phàm có thể ngó mặt
thánh thần, nó đưa ra những đánh giá khác, kiến giải khác, góp thêm giá trị cho
đối tượng nó đề cập. Giải thiêng phải được chấp nhận với chừng mực nhất định,
nhưng nếu đẩy quá lên, giải thiêng để tiến tới hạ nhục, bóp méo, làm lệch lạc bản
chất của đối tượng thì lại cần được cảnh báo sớm, thậm chí cần có sự phê phán
nghiêm khắc.
2. Văn học, với những gì thể hiện hôm nay, cho thấy đang
thiếu một sự ráo riết truy nguyên về đời sống, về tình thế của con người ngay
trong thì hiện tại và cả so sánh với lịch sử. Điều này có nhiều nguyên nhân mà
chúng ta còn phải tìm cách lí giải, nhưng nguyên nhân trực tiếp, gần nhất chính
là do hiện thực của một bộ phận nhà văn, đặc biệt những nhà văn trẻ tuổi đời, đột
nhiên bị mất đi, họ chỉ tiếp cận với hiện thực gián tiếp, hiện thực ảo qua mạng
cũng như sách vở. Đã vơi dần những hành vi sống đúng nghĩa, là đi và ngã và đứng
dậy, và sày vảy. Chính vì thế mà nhiều nhà văn trở nên lúng túng.
Nghệ thuật, nảy mầm trên đời sống thực tại, dứt khoát chỉ
trên đời sống thực tại với toàn bộ cảm nhận trực tiếp, trọn vẹn của nhà văn. Và
chúng ta cần mở rộng khái niệm đời sống với sự chấp nhận rằng thảy những gì tồn
tại trên thế gian này, những gì có trong con người đều là đời sống, ngay cả những
giấc mơ và những cơn ảo mộng diệu vợi nhất. Văn học, nếu muốn tồn tại trong độc
giả thì cần tiến gần lại đời sống, cần những tiếng nói trực diện, sắc sảo phản
ánh, nhận diện, mổ xẻ về các khía cạnh, các vấn đề nóng bỏng của xã hội như đạo
đức, văn hóa, lí tưởng và cái đích nó đạt đến dứt khoát phải là cơ hội giải
phóng con người khỏi bóng tối của chính nó.
Xét cho cùng, nghệ thuật là cách mà con người vượt qua thực
tại của mình để tiến tới một thực tại khác có tính cải thiện cao hơn, dễ chịu
hơn, lí tưởng hơn. Nói như thế để thấy rằng văn học không phải dùng thanh toán
quá khứ, càng không phải để đạp đổ thực tại. Quá khứ không thể bị vứt toẹt đi
khi hiện tại làm người ta phẫn nộ. Và thực tại không thể bị bóp méo, bị kết án,
bị chà đạp một cách mù quáng theo góc nhìn nhận phiến diện, thiếu biện chứng.
Tiếc thay vẫn có những nhầm lẫn giữa phê phán với đập phá, giữa phản ánh với
bóp méo, vẫn có những kích động do nhầm lẫn quyền sáng tạo và lịch sử bỗng
nhiên bị tô vẽ đến mức trở nên xệch xoạc.
Ở đây bắt buộc phải đòi hỏi sự công tâm của nghệ sĩ, sự
công tâm được đặt lên bàn cân mà trục giữa của nó phải là sứ mệnh của nhà văn gắn
với trách nhiệm một công dân, một nhà nhân văn chủ nghĩa. Nếu văn học thiếu
trách nhiệm, nó sẽ đi xa khỏi người đọc, xa khỏi đời sống và như thế nó đánh mất
uy quyền cùng giá trị thâm sâu của nó. Văn học có nguy cơ trở thành món đồ
trang sức, trở thành công cụ cho một bộ phận, một giai tầng nào đó, trong khi về
bản chất thì nó không thuộc về bất kỳ tầng lớp nào.
Văn học nói riêng và nghệ thuật nói chung, là cánh chim
bay trên mọi biên giới, nó là bài học về sự vỗ cánh, là tiếng hót báo hiệu tự
do còn đang tồn tại và bắt buộc phải tồn tại nếu chừng nào con người còn tự nhận
mình là con người. Nhưng trên thực tế hiện nay đã có hiện tượng tự đánh mất tự
do ở vài ba khuynh hướng sáng tác. Một số nhà văn, do ngộ nhận quá trớn về quyền
tự do sáng tạo đã dẫn tới việc nhăm nhe phủ định những quy định căn bản về nhân
tính, phủ định văn hóa truyền thống, coi thường, xúc xiểm thành quả lịch sử của
các thế hệ đi trước. Hệ lụy là văn học bị trói buộc vào sự cố chấp, sân hận,
khiến cho tác phẩm chỉ còn là những văn bản tranh đấu thô thiển.
3. Tính tự cao tự đại của nhà văn đến lúc cần phải khuất
đi để văn học tồn tại một cách có ích. Sự vĩnh cửu, xét cho tận cùng, chỉ còn lại
trong những tình thế xã hội cụ thể mặc dù tính dự báo của văn học là tối quan
trọng, nhưng tính vĩnh cửu hiếm khi còn lại trong những tưởng tượng xa lạ viển
vông. Mọi tìm kiếm, cuối cùng đều là để chạm tới bản chất cốt lõi của hiện thực.
Điều ấy cổ xưa và vững chãi như đá. Nhưng ở nơi bon chen nhốn nháo, đá thường bị
lãng quên, bị thay thế bằng bê tông màu mè. Tuy nhiên, với sự mẫn cảm của mình,
hiện thực đang lặng lẽ giành lại vị trí mà nó thấy cần phải có.
Mộng ảo một thời là sức đẩy cho văn chương bay bổng giờ
đây đã đảo cánh trở thành phẩm chất của khoa học công nghệ. Thời điểm này, ngôn
ngữ chắc chắn đã không theo kịp sự ảo diệu của công nghệ thông tin, bởi chỉ bằng
một cú vuốt thoảng trên màn hình cảm ứng, công nghệ thông tin đã giúp người ta
chạm tới những điều mà ngôn ngữ phải mất một khối lượng đồ sộ mới đạt được.
Khoa học công nghệ tạo ra những thế giới mới, ở đó mọi mơ mộng đã được cụ thể
hóa, ở đó con người có thể sờ vào giấc mơ của chính mình.
Hơn bao giờ hết, vị trí của văn học trở nên mong manh bởi
có rất nhiều lí do để đời sống chối từ nó, đặc biệt là thời điểm hiện nay, thời
điểm mà tâm hồn con người đang bị phân tán theo tốc độ phát triển khủng khiếp của
công nghệ thông tin. Nhưng trong nguy cơ cũng xuất hiện cơ hội. Sự thắng thế của
công nghệ thông tin có thể là cơ hội cho các nhà văn, những kẻ được coi là giác
quan tinh nhạy của tạo hóa, với một chút cay đắng, ngậm ngùi, rời bỏ bãi bờ phù
du để thụ hưởng lại vị chua cay của đời sống trên mặt đất vốn dĩ nó đã từng nếm
trải.
Xã hội này, tình thế dân tộc giai đoạn này cần tới làn
sóng hiện thực phê phán một lần nữa, như nó đã từng xuất hiện những năm nửa đầu
thế kỷ trước. Đương nhiên hiện thực phê phán mà chúng ta cần là hiện thực phê
phán đã qua bàn tay tài năng của những tâm hồn tràn đầy tính bao dung, dựng
xây, nó không phải là thứ hiện thực sống sít, thô lậu mà nhiều nhà văn đã bê
nguyên xi vào tác phẩm của họ với một tâm thế không mấy thiện tín, không mấy
sáng sủa.
Văn học là rượu chưng cất từ đời sống. Chất men quyết định
cho phẩm hàm của rượu nhưng rượu có thể bị hỏng, thậm chí gây độc khi để tạp chất
lẫn vào. Hận thù và ích kỷ là tạp chất đáng sợ trong nghệ thuật. Đây là một
trong những thử thách lớn nhất của nghệ sĩ. Văn học tuyệt không phải sự báo
oán, càng không phải liều thuốc gây mê cho qua cơn đau. Chính xác, nó là cái giếng
ăn thông trời với đất để con người ta có cơ hội nhìn thấy mình sóng sánh trong
diện mạo khác, cả trên vợi cao lẫn dưới thẳm sâu, mà vẫn không bị thất lạc bản
nguyên. Tính phi phàm của nghệ thuật văn chương nằm ở đây, chính ở đây cũng hàm
ẩn những hiểm nguy bởi nó có thể dễ dàng dẫn dụ, xui khiến con người ta, cả độc
giả lẫn tác giả, lạc lối và biến mất vĩnh viễn về một phía.
Đành rằng đời sống cứ chuyển trôi không thể ngăn cản,
đành rằng khi con người đứng trên mặt đất này thì nó đã có vị trí vững chãi bởi
sự hậu thuẫn của tạo hóa. Thế nhưng văn học lại có thể tác động tới đời sống
con người, tới tồn tại của con người, bằng cách nhẫn nại nuôi dưỡng giấc mơ cho
mỗi cá nhân. Từ thực tại đầy rẫy mâu thuẫn, đầy rẫy bất công, đầy rẫy phẫn nộ,
rớm máu và quằn quại, văn học dựng xây những bầu trời để nhân tính rợp bay,
khai mở những con đường để độc giả đặt bước chân tưởng tượng của mình lên đó và
ngoảnh lại mỉm cười bao dung với đời sống bụi bặm. Nói cách khác, văn học phải
cho con người có dịp sống đời sống thứ hai, đời sống mà nhờ đó họ mới biết định
lượng tâm hồn họ còn lại ngần nào, còn trong ở mức nào, còn tươi thắm, dào dạt ở
mức nào.
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Theo VNQĐ
TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM KHÁC: