Nhà lý luận phê bình Trần Xuân Tiến trình bày tham luận
Hội thảo văn học Việt - Hàn tại TPHCM 23.11.2017
1. Giao lưu văn học Việt - Hàn: Một tín hiệu của xu hướng
toàn cầu hóa trong văn học
1.1. Ở một khía cạnh nhất định, giao lưu văn
học có thể được nhìn nhận với tư cách là sự tự ý thức về chính văn học thông
qua việc thể hiện song song hai nhu cầu tưởng chừng như đối nghịch là nhu cầu
tìm hiểu, tiếp nhận có chọn lọc những tinh hoa của đối tượng khác (tha nhân) và
nhu cầu giới thiệu, quảng bá những giá trị riêng có của bản thân. Hai nhu cầu ấy,
tùy theo bối cảnh chính trị - xã hội, tùy theo tư duy của những người trong cuộc
mà có lúc bên nặng bên nhẹ khác nhau. Hai nhu cầu ấy, thú vị thay, lại rất phù
hợp với tích cách/ bản chất của quá trình toàn cầu hóa (Globalization). Toàn
cầu hóa là khái niệm được đặt ra nhằm biểu đạt sự trao đổi, liên kết
đang ngày càng được tăng cường giữa các quốc gia, các khu vực, các vùng lãnh thổ.
Thuật ngữ này xuất hiện vào những năm 50 và được sử dụng một cách phổ biến từ
những năm 90 của thế kỷ trước. Những hiệu quả mà toàn cầu hóa mang lại đã khiến
cho quá trình của chính nó trở thành một xu thế tất yếu. Trong hành trình của
toàn cầu hóa, của giao lưu văn học, dịch thuật có vai trò hết sức đặc biệt. Bởi
vì, một trong những biểu hiện cụ thể dễ nhận thấy của xu hướng toàn cầu hóa
chính là sự gia tăng quá trình trao đổi văn hóa, trong đó có xuất khẩu các văn
hóa phẩm, cụ thể là tác phẩm văn học.
Tuy là hai nước Đông Á cách xa nhau về khoảng cách địa
lý, nhưng Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điểm tương đồng về các yếu tố địa - chiến
lược, địa - lịch sử, địa - văn hóa (mà yếu tố đồng văn thường được nhấn mạnh
hơn cả). Lịch sử bang giao song phương ở riêng lĩnh vực văn hóa giữa hai nước
Việt – Hàn (thời điểm này là cả bán đảo Triều Tiên) đã được hình thành từ thế kỷ
XIV nhưng phải đến giữa thế kỷ XX, công tác dịch văn học của hai nước mới có dấu
hiệu của sự khởi động. Với việc chính thức thiết lập mối quan hệ ngoại giao
qua Tuyên bố chung về việc thiết lập quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ vào
ngày 22/12/1992, hoạt động dịch thuật và giới thiệu văn học Hàn Quốc ở Việt Nam
thực sự đi vào quỹ đạo của sự phát triển. Tháng 8/2001, hai nước đã nâng cấp
quan hệ lên Đối tác toàn diện trong thế kỷ XXI, và đến tháng
10/2009 tiếp tục nâng cấp thành Đối tác hợp tác chiến lược. Chính
những cơ sở chính trị này đã tạo tiền đề cho quá trình giao lưu văn học Việt -
Hàn phát triển.
Theo thống kê chưa đầy đủ của chúng tôi, tính đến tháng
11/2016, đã có gần 130 đầu sách văn học Hàn Quốc được dịch và giới thiệu ở Việt
Nam. Hiện nay, nhiều đơn vị xuất bản có định hướng đẩy mạnh công tác dịch văn học
Hàn, nổi bật là Công ty cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam (Hà Nội) và Nhà
xuất bản Trẻ (TP.HCM) với nhiều ấn phẩm cập nhật tình hình văn học đương đại ở
Hàn Quốc. Trong tâm thế tạo sự “thông hiểu, hợp lực để cùng phát triển”, ngoài
hoạt động giảng dạy, Trung tâm Ngôn ngữ tiếng Hàn tại TP.HCM từng tổ chức dịch
và phát hành miễn phí tập sách Những bài thơ hay của văn học hiện đại
Hàn Quốc. Sách tập hợp 60 bài thơ được cho là tiêu biểu của Hàn Quốc với lời
dịch Việt ngữ trong sáng, gần gũi kèm hình minh họa đặc sắc, quyển sách thật sự
là tài liệu hữu ích để độc giả Việt Nam tiếp cận với thơ ca Hàn Quốc.
Không cần đến một cuộc khảo sát xã hội học, nhìn qua thực
trạng nêu trên (trên bình diện xuất bản) chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy của
văn học Hàn Quốc có vai trò khá mờ nhạt so với các sản phẩm văn hóa khác (phim
truyền hình, điện ảnh, thời trang, ẩm thực…) trong đời sống tinh thần của đại
chúng Việt trong sự tiếp nhận văn hóa Hàn Quốc.
Câu chuyện về giao lưu văn học Việt - Hàn còn thể hiện ở
các hoạt động tiếp nhận của giới nghiên cứu. Song song với các lĩnh vực kinh tế,
triết học, văn hóa - xã hội, khoa học - kỹ thuật, công tác nghiên cứu văn
chương hai nước Việt Nam - Hàn Quốc cũng đi vào phác thảo quan hệ so sánh, đối
chiếu trong tâm thế tìm ra những điểm tương đồng dị biệt giữa hai dân tộc, kết
nối nhau bằng những liên hệ đồng dạng, khẳng định những giá trị cốt lõi riêng
biệt. Đề án Phát triển tài nguyên nghiên cứu và giảng dạy văn học Hàn
Quốc ở Việt Nam [AKS-2012-BBZ-211] đang dần được hiện thực hóa bởi
hàng loạt các hội thảo, tọa đàm lớn nhỏ như: Hội thảo khoa học quốc tế Văn
học Hàn Quốc trong bối cảnh châu Á(tháng 01/2014), Hội thảo khoa học quốc tế Nghiên
cứu và giảng dạy Ngữ pháp tiếng Hàn và Văn hóa - Xã hội Hàn Quốc (tháng
8/2016) v.v..
Trường ĐH KHXH&NV - ĐHQG Hà Nội là một trong những địa
chỉ mạnh về công tác nghiên cứu Hàn Quốc. Các Hội thảo Dịch thuật văn học
Hàn Quốc tại Việt Nam (tháng 11/2014), Văn học Hàn Quốc tại
Việt Nam (tháng 11/2015, phối hợp với Viện Dịch thuật Văn học Hàn Quốc)
thu hút được nhiều nhà nghiên cứu, giảng dạy, nhiều dịch giả Hàn Quốc và Việt
Nam quan tâm tham dự.
Gặp gỡ văn chương Việt Hàn - Korean Vietnam literary
exchange event là chương trình được tổ chức thường niên bởi sự phối hợp
thực hiện giữa Viện Dịch thuật Văn học Hàn Quốc한국문학번역원và Trường Đại học KHXH&NV - ĐHQG
TP.HCM. Chương trình được khởi động vào năm 2014 với buổi giao lưu giữa hai tác
giả Nguyễn Ngọc Tư và Kim Young-ha. Theo sau đó là các buổi giao lưu giữa tác
giả Hồ Anh Thái và Jeong You-jeong (2015), tác giả Võ Diệu Thanh và Hwang
Sun-mi (2016). Cũng nằm trong khuôn khổ của chương trình này, các
buổi tọa đàm với chủ đề Phương hướng tăng cường trao đổi, hợp tác dịch
thuật và giới thiệu văn học góp phần xúc tiến quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc (2015), Xúc
tiến giao lưu văn học dịch Việt Nam - Hàn Quốc (2016) đã tạo cơ hội
cho các bên trong lĩnh vực văn chương trao đổi, tổng kết, xúc tiến hoạt động kết
nối giao lưu.
Bên cạnh hai đơn vị nêu trên, công tác giao lưu văn học
Việt - Hàn còn được đẩy mạnh bởi nhiều đơn vị khác như: Hội Nghiên cứu khoa học
về Hàn Quốc của Việt Nam (Korean Research Association of Vietnam - KRAV), Viện
Nghiên cứu Đông Bắc Á (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), các trường
Đại học, Cao đẳng có giảng dạy Hàn Quốc học v.v..1
Như vậy, từ lĩnh vực xuất bản đến nghiên cứu chuyên
ngành, hoạt động giao lưu văn học Việt - Hàn đã có một diện mạo chung tương đối
sôi động và có tiềm năng được đẩy mạnh trong tương lai.
1.2. Khái niệm giao lưu (exchange)
tự trong nội hàm của nó đã định hướng đến sự đối thoại và hợp tác từ hai phía.
Tuy vậy, tình hình tiếp nhận văn học Việt Nam ở Hàn Quốc đang trong tình trạng
trầm lặng hơn so chiều hướng ngược lại. Hiện nay, (theo thông tin chúng tôi tổng
hợp từ internet), số lượng tác giả Việt Nam có tác phẩm được dịch ở Hàn Quốc chỉ
vỏn vẹn một vài tên tuổi. Có thể kể đến như các nhà văn Bảo Ninh, Văn Lê, Nguyễn
Ngọc Tư, Hồ Anh Thái và nhà thơ Hữu Thỉnh. Về công tác nghiên cứu, trong bài viết Tình
hình nghiên cứu văn học Việt Nam ở Hàn Quốc vào năm 2008, GS.TS. Kim
Ki-tae đã thẳng thắn chia sẻ: “Ở Hàn Quốc, số lượng học giả nghiên cứu về
văn học Việt Nam rất ít. Văn học hiện đại thì càng ít”. Trước thực trạng có
phần “tẻ nhạt” đó ông bày tỏ mong muốn “trong tương lai sẽ có thêm nhiều
nghiên cứu về văn học Việt Nam tại Hàn Quốc cùng hòa với việc nghiên cứu văn học
Trung Quốc, Đông Bắc Á”2. Gần mười năm đã trôi qua tính từ lúc
GS.TS. Kim Ki-tae viết nhận định này, khung cảnh tiếp nhận văn học Việt Nam ở
Hàn Quốc, trong chừng mực nhất định, có thể nói, tuy có ít nhiều biến chuyển
nhưng vẫn chưa tương ứng với tiềm năng vốn dĩ. Thực tế, hiện trạng nghiên cứu
này vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng của những người trong cuộc. Một điểm đáng chú
ý là trong khi Viện Dịch thuật Văn học Hàn Quốc đã tổ chức trao giải thưởng văn
học dịch cho các dịch giả Việt Nam dịch xuất sắc các tác phẩm văn học Hàn Quốc
sang tiếng Việt3 thì các dịch giả dịch tác phẩm văn học Việt
Nam sang tiếng Hàn Quốc chưa có được sự khích lệ tương tự.
2. Một số đề xuất đối với công tác dịch văn học Hàn Quốc
tại Việt Nam
So với văn học dịch các nước khác ở Việt Nam, nhất là văn
học Trung Quốc, văn học Nhật Bản, văn học dịch Hàn Quốc được xem là khá non trẻ.
Vì vậy, rất cần quan tâm đến những kinh nghiệm từ văn học dịch Trung Quốc, Nhật
Bản ở Việt Nam. Xem xét những kinh nghiệm này, kết hợp với việc quan sát tình
hình dịch thuật văn học Hàn Quốc ở Việt Nam, chúng tôi đề xuất một số ý kiến nhằm
hướng đến một hình ảnh văn học dịch Hàn Quốc ở Việt Nam đa màu sắc, đáp ứng
mong mỏi của tác giả lẫn người đọc.
2.1. Về việc lựa chọn tác phẩm để dịch và xuất bản
Khi xem xét những tác giả, tác phẩm văn học Hàn Quốc được
chọn dịch và giới thiệu ở Việt Nam, dễ dàng nhận thấy sự thiên lệch về văn học
cận đại, về các trường phái hiện thực chủ nghĩa và tự nhiên chủ nghĩa. Chỉ khoảng
ba năm trở lại đây, tình hình này mới có chiều hướng thay đổi khi hàng loạt các
tác phẩm đương đại của văn học Hàn Quốc được dịch và giới thiệu đến độc giả Việt
Nam. Điều này một phần là do ý thức, chủ đích của dịch giả, một phần cũng là do
những tác giả, tác phẩm dán nhãn bestseller (bán chạy) khi tạo được hiệu ứng tốt
ở Hàn Quốc tất nhiên sẽ dễ dàng du hành tới công chúng Việt Nam. Đây là tín hiệu
đáng mừng để tạo nên một bức tranh văn học dịch Hàn Quốc ở Việt Nam đa màu sắc,
phong phú về đề tài cũng như phong cách nghệ thuật. Tuy vậy, cũng cần tránh sa
đà, chạy theo các tác phẩm đương đại mang nặng tính thị trường gây nhiễu loạn
không gian đọc (như đã từng xảy ra với trường hợp văn học dịch Trung Quốc, Nhật
Bản ở Việt Nam).
Từ lập trường của các tổ chức giao lưu văn hóa, văn học
Hàn Quốc, theo chúng tôi, khi lựa chọn tác phẩm để dịch và giới thiệu ở Việt
Nam cần quan tâm song song hai vấn đề chính. Một là, Hàn Quốc muốn độc giả Việt
Nam hiểu về đất nước Hàn, văn hóa Hàn như thế nào, đâu là điểm riêng có, là “bộ
nhận diện” quốc gia của xứ Kim Chi? Hai là, cần chú trọng đến nhu cầu, thị hiếu
đọc của độc giả Việt Nam khi tìm hiểu về đất nước con người Hàn Quốc. Từ đó,
xây dựng kế hoạch dịch và giới thiệu đa dạng các thể loại, các xu hướng sáng
tác để tạo nên cái nhìn đầy đủ hơn về diện mạo văn học Hàn Quốc. Còn đứng về
phía các đơn vị dịch và giới thiệu tác phẩm văn học Hàn Quốc ở Việt Nam cũng phải
lưu tâm chú ý đến việc đón nhận những điểm tích cực, hạn chế tiếp thu những điểm
không phù hợp với văn hóa quốc gia. Cần linh hoạt và cập nhật trong lựa chọn
tác phẩm dịch theo hướng duy trì cân đối giữa các sách khó đọc, mang tính hàn
lâm với văn học giải trí. Việc dung hòa hai khía cạnh này vừa phải đảm bảo tính
đại chúng, vừa phải đảm bảo nét tinh hoa để đáp ứng đồng thời hài hòa cả nhu cầu
là nghiên cứu chuyên môn lẫn kiến thức thường thức phổ thông.
Trong quá trình giao lưu văn học, văn hóa Việt – Hàn, cần
tránh thiên vào việc nhận diện những điểm tương đồng mà còn phải luôn ý thức việc
chỉ ra những nét khác biệt giữa văn hóa, văn học hai nước. Từ đó, một mặt thấy
rõ những điểm sáng của văn học nước bạn, mặt khác, rút ra những bài học kinh
nghiệm cho việc phát triển văn học nước mình. Nếu trước đây trong lịch sử Việt
Nam, các bậc hiền nhân đi trước lấy Nhật Bản làm tấm gương cho phong trào Duy
Tân thì ngày nay, người Việt Nam đang xem sự thành công của kinh tế và văn hóa
Hàn Quốc làm tấm gương cho mình. Trong tâm thế đó, rất cần hướng tới việc xây dựng
những dự án dịch thuật và xuất bản mang tính hệ thống, có sự hợp tác giữa tổ chức
tài trợ với các đơn vị thụ hưởng.
Sự phối hợp với các chuyên gia, giáo sư về văn học Việt
Nam ở Hàn Quốc khi lựa chọn tác phẩm để dịch và giới thiệu ở Việt Nam cũng cần
được chú ý. Với đặc thù công việc, đặc thù chuyên môn, họ sẽ đưa ra những gợi ý
thú vị về việc lựa chọn tác phẩm dịch phù hợp với sự tiếp nhận của độc giả Việt
Nam. Nhất là khi dịch các tác phẩm văn học cổ của Hàn Quốc, sự cộng tác của các
chuyên gia Việt Nam có hiểu biết về văn học Hán văn với các chuyên gia về Việt
Nam của Hàn Quốc hẳn sẽ mang lại những kết quả cao.
Trong quá trình thực hiện các khóa luận, luận văn, luận
án, sinh viên, học viên, các nhà nghiên cứu, học giả đã dịch nhiều tác phẩm văn
học Hàn Quốc. Tìm kiếm những bản dịch có chất lượng cao và xúc tiến công tác in
ấn thành xuất bản phẩm đối với những bản dịch này là việc nên làm.
Ngoài ra, cũng cần quan tâm đến công tác tái bản một số
tác phẩm Hàn Quốc đã từng được giới thiệu ở Việt Nam. Ví dụ như tác phẩm Truyện
Xuân Hương춘향전春香傳 (Bae
Yang Soo dịch) đã được xuất bản từ năm 1994 chỉ với 500 bản, không bán mà chỉ gửi
tặng cho những cơ quan và cá nhân nghiên cứu liên quan tới Hàn Quốc. Qua hai
mươi hai năm chưa tái bản nên việc tìm đọc tác phẩm kiệt tác này đối với độc giả
Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Các bản dịch có trên internet thì thường không đầy
đủ hoặc có thiếu xót, chỉnh sửa sai lệch. Như vậy, tái bản là việc làm phù hợp
và cần thiết. Ưu tiên trước mắt đối với những tác phẩm là kiệt tác của văn học
Hàn Quốc và những tác phẩm được đông đảo bạn đọc Việt Nam yêu thích.
2. 2. Về đội ngũ dịch thuật
Dịch phẩm văn học Hàn Quốc ở Việt Nam ngày càng nhiều
nhưng lại hiếm những tác phẩm dịch hay, thật sự để lại hiệu ứng tốt trong lòng
người đọc. Một phần nguyên nhân của thực trạng này bắt nguồn từ phía dịch giả.
Đội ngũ dịch giả các tác phẩm văn học Hàn Quốc hiện nay phần đông là những người
trẻ, thường mạnh về ngoại ngữ hơn là được đào tạo chuyên sâu về văn chương.
Chính vì thế, công tác đào tạo cơ bản trong lĩnh vực dịch thuật văn học Hàn Quốc
tại Việt Nam rất cần được quan tâm định hướng, đẩy mạnh hơn nữa việc hình thành
đội ngũ người dịch gắn bó với từng mảng sách riêng.
Năm 2011, Viện Dịch thuật Văn học Hàn Quốc và Bộ môn Hàn
Quốc học, Trường Đại học KHXH&NV – ĐHQG TP.HCM (nay là Khoa Hàn Quốc học)
đã phối hợp tổ chức hội thảo quốc tế với chủ đề Dịch văn học và văn học dịch
Hàn Quốc ở châu Á. Hội thảo không chỉ thu hút sự tham dự của các học giả – dịch
giả Việt Nam mà còn có sự hiện diện của nhiều chuyên gia đến từ các nước châu Á
như Trung Quốc, Mông Cổ, Thái Lan, Đài Loan… Chuỗi chương trình Giao lưu văn
chương Việt - Hàn hàng năm (bắt đầu từ năm 2014) được tổ chức tại TP.HCM cũng
đã thiết kế các buổi tọa đàm về dịch thuật văn học Hàn Quốc tại Việt Nam. Như vậy,
đã có các hội thảo, tọa đàm về dịch thuật văn học Hàn Quốc nhưng vẫn còn trong
con số khiêm tốn, chưa đáp ứng kịp thời so với sự phát triển của tình hình dịch.
Phải xác định những hội thảo, tọa đàm như vậy chính là cơ hội để các bên có
liên quan cùng nhau bàn luận, thống nhất những quan điểm về dịch tác phẩm văn học
Hàn Quốc nói riêng, dịch thuật nói chung, là dịp để các dịch giả được cất lên
tiếng nói của mình, để những tâm tư được gợi mở và hiện thực hóa.
Đầu tháng 11/2015, tại Seoul (Hàn Quốc), Quỹ dịch thuật
Văn học Hàn Quốc đã tổ chức lễ trao giải cho 6 dịch giả đã chuyển thể xuất sắc
4 tác phẩm văn học Hàn Quốc sang ngôn ngữ của đất nước sở tại, trong đó có dịch
giả Vũ Kim Ngân của Việt Nam, với cuốn tiểu thuyết 7 năm bóng tối 7년의 밤của
nhà văn Jeong You Jeong정유정. Được tổ chức thường niên, bắt đầu từ năm 2002, đây là giải
thưởng trao cho các tác phẩm dịch văn học Hàn xuất sắc được xuất bản bên ngoài
lãnh thổ Hàn Quốc. Sự ra đời của giải thưởng không chỉ cho thấy sự trân trọng của
Hàn Quốc dành cho các dịch giả mà còn phản ánh tinh thần quảng bá văn học của xứ
sở Kim Chi. Đây là một kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam. Thực tế ở nước ta hiện
nay, xã hội vẫn còn thiếu nhận thức và quan tâm về các dịch giả, các dịch giả
còn gặp nhiều khó khăn trong công việc như: không có bằng cấp chứng nhận dịch
giả, ít cơ quan tài trợ và ủng hộ quyền lợi dịch giả. Cần lắm những động thái
tích cực từ các cơ quan quản lý văn hóa, các tổ chức nghề nghiệp… Khó khăn với
con đường dịch thuật là vậy, nhưng các dịch giả lại mang trong mình trọng trách
vô cùng ý nghĩa, họ chính là những cầu nối văn hoá trong sự giao lưu văn hóa giữa
các quốc gia. Trách nhiệm đó cần được ý thức và thực hiện.
2.3. Cầu nối văn hóa và sự giao lưu hai chiều
Quá trình dịch thuật văn học nước ngoài ở Việt Nam phải
được nhìn nhận là hoạt động hết sức đặc thù. Dù các hiện tượng văn hóa bề ngoài
có thể khác nhau, nhưng giữa các dân tộc có điểm giống nhau sâu sắc là sự giữ
gìn những phẩm chất nhân văn. Đặc biệt, văn học như cội rễ của văn hóa dân tộc
lại càng như vậy. Biên dịch văn chương đóng vai trò liên thông giữa các ngôn ngữ
khác biệt, mang lại sự thấu hiểu lẫn nhau giữa các dân tộc, khẳng định điểm
chung giữa các nền văn học. Không chỉ nhằm bảo lưu tính đa dạng của nhân loại,
dịch thuật đồng thời còn làm giàu thêm kho tàng văn hóa của loài người. Thực tế
cho thấy, trong quá trình dịch thuật, nhiều yếu tố tương đồng về văn hóa xã hội
giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã được thể hiện. Qua đó, lý giải phần nào sự tiếp nhận
mạnh mẽ của độc giả Việt Nam đối với các tác phẩm văn học Hàn Quốc. Chính sự vừa
tương đồng vừa khác biệt đã tạo sự thu hút như thể chúng ta tìm hiểu về một người
bạn vừa lạ vừa quen, vừa bỡ ngỡ vừa thân tình. Mặt khác, văn chương Hàn Quốc
cũng phản ánh quá trình tiếp nhận văn hóa phương Tây. Sự tiếp nhận ấy, Việt Nam
cũng chung một hoàn cảnh. Và vì cùng chung hoàn cảnh nên những thành công của
Hàn Quốc cần được xem là những kinh nghiệm cho Việt Nam tìm hiểu và nghiên cứu.
Nhu cầu hiểu biết lẫn nhau qua văn học đáp ứng những vấn
đề thực tiễn trong quan hệ Việt - Hàn. Và như thế, dịch thuật được xem là cửa
ngõ của hành trình giao lưu văn hóa. Dịch thuật nghiêm túc phải bắt nguồn từ ý
thức văn hóa. Việc dịch văn học và giới thiệu văn hóa nước ngoài phù hợp với
tâm thức văn hóa nước mình vô cùng quan trọng. Ngoài ra, công việc dịch thuật cần
dựa trên cơ sở hiểu rõ các trách nhiệm với các vấn đề lịch sử, tôn trọng lịch sử
để cùng nhau không ngừng củng cố và xây đắp mối quan hệ hợp tác tốt đẹp. Theo
Lee Han-woo và Bùi Thế Cường, trong quyển sách Việt Nam - Hàn Quốc: Một
phần tư thế kỷ chia sẻ cùng phát triển, có một số tác phẩm văn học Hàn Quốc
viết về Việt Nam, phản ánh nhận thức của người Hàn về đất nước Việt Nam. Hai
tác phẩm Tháp탑(xuất bản năm 1970), Cái bóng của vũ khí 무기의 그늘 (1985)
của nhà văn Hwang Sok Yong황석영và tác phẩm Người da vàng 힁색인 (1970) của Lee Sang Moon đều thể
hiện nhận thức chống chủ nghĩa đế quốc, phê phán cái nhìn sai lệch của người
lính Hoa Kỳ về văn hóa Việt Nam. Tác phẩm Chiến tranh trắng하얀 전쟁 (1983)
của Ahn Jung Hyo안정효, Huân chương và xiềng xích훈 장 과 굴 레 (1987) của Lee Won Kyu cùng tập
trung vào vấn đề cá nhân của những người lính Hàn từng tham chiến tại Việt Nam.
Ngoài ra, cảm quan hậu chiến bắt nguồn từ chiến tranh Việt Nam, tinh thần tự vấn
và hòa giải cũng xuất hiện trong một số tác phẩm văn học Hàn Quốc như: Áo dài đỏ 붉은 아오자이 (1995)
của Oh Hyun Mi, Cuộc chia ly buồn애별 (2002) của Ku Hyo Seo, Slow Bullet슬로우 불릿 (2001)
của Lee Dae Hwan이대환… Thiết nghĩ, các tác phẩm thuộc những đề tài này rất nên được
dịch sang tiếng Việt để độc giả Việt Nam hiểu hơn về quá trình thay đổi nhận thức
về Việt Nam của người Hàn.
TRẦN XUÂN TIẾN
Giảng viên Khoa
KHXH&NV
Trường Đại học Văn
Hiến
Chú thích:
1 Tháng 6/2014, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á và Viện Nghiên
cứu Hàn Quốc học Trung ương (Academy of Korean Studies) phối hợp tổ chức Hội thảo
quốc tế Nghiên cứu Hàn Quốc tại Việt Nam: Thành quả và phương hướng;
Tháng 5/2016, Trường Đại học Đà Lạt (Lâm Đồng) tổ chức Tọa đàm khoa học quốc tế So
sánh văn học Việt Nam - Hàn Quốc… cũng thu hút được nhiều nhà khoa học,
chuyên gia hai nước tham dự.
2 Kim Ki-tae, Tình hình nghiên cứu văn học Việt
Nam ở Hàn Quốc, http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/vhvn-nhung-van-de-ch...,
truy cập ngày: 25/9/2016.
3 Kể từ năm 2002, Viện Dịch thuật Văn học Hàn Quốc tổ chức
giải thưởng thường niên cho các tác phẩm dịch văn học Hàn và xuất bản ngoài
lãnh thổ Hàn Quốc ở năm trước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Phan Thị Thu Hiền (2014),
“Giao lưu dịch thuật văn học giữa Việt Nam và Hàn Quốc với vai trò “cửa sổ văn
hóa””, Tuần báo Văn nghệ TP.HCM, Số 327 (ngày 13/11/2014).
2. Kim Ki-tae, Tình
hình nghiên cứu văn học Việt Nam ở Hàn Quốc, http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/vhvn-nhung-van-de-ch...,
truy cập ngày: 25/9/2016.
3. Lee Han-woo, Bùi Thế Cường
- Đỗ Ngọc Luyến, Nguyễn Thị Hiền dịch (2015), Việt Nam - Hàn Quốc: Một
phần tư thế kỷ chia sẻ cùng phát triển, NXB ĐHQG TP.HCM, TP.HCM.
4. Nguyễn Thị Thắm chủ biên
(2015), Nghiên cứu Hàn Quốc tại Việt Nam: Thành quả và phương hướng,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
5. Trần Thúc Việt (2009),
“Nghiên cứu văn học Hàn Quốc tại Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế tiếng
Hàn Quốc, Trường ĐH Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội, http://data.ulis.vnu.edu.vn/jspui/handle/123456789/1308; ngày
truy cập: 11/11/2015.
TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM KHÁC: