Nhà văn Ngô Phan Lưu
Những truyện
ngắn của Ngô Phan Lưu hơn một lần làm rung động trái tim độc giả Việt Nam. Mỗi
hình tượng nhân vật của ông như có ma lực đã lôi cuốn chúng ta với một sức mạnh
không thể nào cưỡng nổi vào cuộc đời đầy bão tố của họ, buộc ta phải
nghĩ suy, giật mình ngẫm lại về nhân tính, mối quan hệ giữa người với người trước
hiện tại và tương lai. Từ đó biết cách ứng nhân xử thế, sống đẹp hơn, có thêm
niềm tin và tình yêu đối với cuộc sống. Khảo sát các tác phẩm truyện ngắn của
Ngô Phan Lưu, chúng tôi nhận thấy có 4 kiểu nhân vật điển hình sau:
1. Nhân vật cô đơn
Ngô Phan Lưu trình bày một đời sống ngổn ngang, bất trắc,
nơi lý tưởng và các giá trị truyền thống bị đổ vỡ, nơi con người chỉ là những mảnh
số phận, những cá thể, không nhân danh, không đại diện cho bất kì ai. Cùng tư
tưởng với các nhà triết học Hiện sinh chủ nghĩa, Ngô Phan Lưu đã nhìn con người
như những số kiếp vật vờ, thân phận nhỏ nhoi, mỏng manh và mang trong mình một
nỗi cô đơn bản thể. Trạng thái cô đơn là trạng thái thích hợp nhất để con người
ngắm nhìn, chiêm nghiệm lại cuộc sống của chính mình. Có những phút giây bừng tỉnh,
có những khoảnh khắc lóe sáng trong tâm thức. Nhiều khi con người chịu cô đơn để
bảo toàn niềm tin khát vọng của mình.
Trong Buổi sáng biến mất, chú Khiêu là kẻ cô
đơn, là trái banh trong chân đội banh ung thư gan, xẹp hơi, đang chờ cho lọt
vào “gôn” Tử Thần. Các thành viên trong nhà họ coi chú là gánh nặng, vật phế thải
chướng tai gai mắt. Chú Khiêu đang phải âm thầm chịu đựng nỗi đau cả thể xác lẫn
tinh thần, chú thấm thía nỗi cô đơn lạnh lẽo tột cùng. Đó là Lão Tư Cua (Người
không giăng câu Kiều) cô đơn không chỉ vì sống một mình mà “là người
khang khác với mọi người trong xóm” Trạch Thắng, bởi lẽ lão dám bắt Cua Đinh bằng
tay và “dám to tiếng với cụ Phiệt, người được kính sợ lâu nay”. Đó là Bẫm Xình
Tơn nát rượu bị biển người mênh mông cự tuyệt, nhìn với nhiều ánh mắt khinh bỉ.
Khoảnh khắc lương thiện đích thực lại là khoảnh khắc Bẫm ôm nỗi đau người thừa
vào lòng.
Khi đặt nhân vật trong mối quan hệ với đồng loại, với thế
giới bên ngoài, Ngô Phan Lưu đã cho ta thấy sự cô đơn của con người thể hiện
ngay trong các quan hệ xã hội, sự rạn vỡ trong mối liên kết, trong niềm tin giữa
con người với con người và giữa con người với thế giới. Sự lỏng lẻo trong mối
quan hệ gia đình và xã hội (Bộ răng của ông Răng). Đó là lời cảnh tỉnh cho sự
sa đọa, xuống cấp về đạo đức, giá trị con người, sự thui chột về tình người đã
đến mức báo động.
Trong một số
tác phẩm, nhân vật không có thời gian quá khứ càng không có thời gian cho tương
lai, chỉ có thời gian hiện tại, lúc nhân vật xuất hiện, song đó là thời gian đằng
đẵng một khối cô đơn khổng lồ. Cô đơn như một hình phạt, cô đơn như một tiền định:
Cụ Ông – bố của Lân (Cơm chiều).
Ở một khía cạnh
khác, con người trong thế giới của Ngô Phan Lưu càng bị nhấn chìm sâu hơn vào nỗi
cô đơn khi chỉ có một mình anh ta đương đầu với những biến cố trong cuộc đời,
chỉ có anh là nhân chứng cho chính anh trước sự phi lý trút xuống thân phận.
Anh Quyết (cùng gia đình) trong Bầy người bé nhỏ – nỗi ám ảnh
kinh hoàng sợ hãi về kiếp người trước thiên nhiên.
Con người cứ
thế bơ vơ, cứ thế lạc lõng vô định không hiểu được mình đang làm gì (Bà
thánh của hai người, Làng quê thì mênh mông). Đó cũng là một sự kiện
tinh thần của không ít người hiện đại ngày nay “thấy mình lọt tõm vào một vùng
cô đơn hun hút…” (Trắng đêm để gặp nỗi buồn), cô đơn cùng cực. Họ ý thức được sự
nhàm chán triền miên trong cuộc sống của mình (Mù sương đầu ngõ). Nếu không có
cái nhìn tinh nhạy, thấu suốt tâm can con người, Ngô Phan Lưu đã không thể nắm
bắt được những khoảnh khắc bơ vơ, bất định như vậy.
2. Nhân vật
mang tư chất nghệ sĩ
Đọc truyện ngắn
của Ngô Phan Lưu ta bắt gặp một loạt các nhân vật mà chất “nghệ sĩ” của họ
không tuân thủ một quy luật, không theo một trường phái nào, nó tồn tại bản năng
và phát triển tự nhiên như cuộc sống hàng ngày của họ. Họ là những con người “đặc
biệt” và gặp nhau cũng trong những hoàn cảnh thật đặc biệt.
Lão nông Lạng
xóm Đìa sóm sém bảy mươi mang trong mình niềm đam mê văn chương. Lão thường cho
ra lò những vần thơ “đầu Ngô mình Sở”, kiểu thơ “Liên Hợp Quốc” chắp vá. Thế
mà, loại thơ cắt ghép kì quặc đó cũng có “tín đồ”, mà còn là tín đồ một mực
trung thành – chú Dành, chàng trai hai mươi hai tuổi, cùng xóm. Họ trở thành bạn
tâm giao hằng ngày Đối ẩm trong sương. Ngô Phan Lưu đã mang đến
cho người đọc cách nhìn mới: Không có chân lý sáng tạo nghệ thuật bất biến. Người
nghệ sĩ sáng tạo theo sự thôi thúc của nội tâm, nên những phút thăng hoa của cảm
xúc, của nội tâm đã tạo nên những cái bất ngờ trong sáng tạo. Cái bất ngờ làm
nên cái đẹp và kì diệu của nghệ thuật.
Nghệ thuật
không dành riêng ai, nó dành cho tất cả mọi người, những ai mang trong mình tư
chất của người nghệ sĩ và niềm đam mê nghệ thuật: Thắng, Thùy (Con sóng tung
hoa), anh bạn của “tôi” (Sóng bạc đầu), anh thợ hớt tóc (Chú thợ
hớt đường Bà Triệu), họ cũng là “nhà thơ”, những người yêu nghệ thuật.
Trong truyện
ngắn của mình, Ngô Phan Lưu cũng đã xây dựng thành công hệ thống nhân vật chủ yếu
được trời phú cho giọng hát hay, lay động lòng người. Giọng hát khàn khàn tuyệt
vời của cô chủ Nhạc Trầm My quán. Chất giọng đau đớn, uất nghẹn
của chú Bảy hòa nhịp cùng âm thanh ma quỷ của “nhạc cụ” Xâu chìa khóa,
chảy cuồn cuộn theo một làn điệu bài chòi đặc sản địa phương khiến người ta lặng
đi, nổi da gà. Chú tuy là “Một người nông dân rặt từ khuôn mặt đến quần áo, vậy
mà nghệ sĩ hết cỡ ấn tượng”.
Khảo sát tác
phẩm của Ngô Phan Lưu ta còn bắt gặp thêm những mảnh đời bất hạnh trót mang
duyên kiếp cầm ca làm nghiệp mưu sinh. Trong tiếng nhạc thô mộc trầm buồn, như
cung tơ vang vọng đến nao lòng của chiếc đàn cò. Giọng hát chân phương, chưa từng
qua trường lớp ngày ngày cất lên, lẫn lộn với ồn ào góc chợ nhưng lại có sức hấp
dẫn rất riêng. Với bác Quyền (Ánh sáng cong), lão Mồn (Lên đường)
Ngô Phan Lưu đã đề cập thật riết róng tới những mất mát, tổn thương mà người
nông dân phải gánh chịu. Những mảnh đời bất hạnh trong những làng quê Việt hiện
thời.
3. Nhân vật
bị ám ảnh bởi thế giới giấc mơ
Trong truyện
ngắn của Ngô Phan Lưu, tần suất xuất hiện kiểu nhân vật chìm đắm, ám ảnh bởi thế
giới giấc mơ khá dày đặc (19/73 truyện, chiếm gần 26%). Xây dựng kiểu nhân vật
này là một phương thức nghệ thuật hữu hiệu để mở rộng biên độ hiện thực được
chiếm lĩnh trong văn học, đồng thời tạo nên sức hấp dẫn riêng của thế giới nghệ
thuật trong tác phẩm, khiến nó không còn là sự mô phỏng, trùng khít với hiện thực
ngoài đời. Thủ pháp ảo hóa hiện thực khiến cho cả nhân vật trong truyện và người
đọc đều không có một ý niệm rõ rệt.
Trong các truyện Chiếc
ngạnh cá, Con diều giấy, Nếu không nhìn ra cổng, Con
sóng tung hoa, giấc mơ của Đại, Lãm, Hòa và Thùy đều xuất hiện những
“vùng đất hứa” “vắng bóng con người”, chỉ có tiên và quỷ. Tất cả họ không một
ai cảm thấy buồn mà thậm chí còn vui. Motif người gặp tiên, gặp quỷ được lặp lại.
Đối diện với họ, con người không hề sợ hãi, ngược lại chính quỷ, tiên ghê sợ
con người. Điều rùng rợn không nằm ở ma quỷ mà ở chính cái bản chất bất toàn ẩn
tàng của con người. Con người không dễ gì chấp nhận sự thật ấy trong hiện thực.
Con người kinh tởm con người, muốn thoát ra khỏi thân xác chính mình, tìm cảm
giác nhẹ nhàng, thanh thản. Nội dung biểu hiện của những giấc mơ được coi như sự
thực hiện trá hình những ham muốn bị dồn nén trong hiện thực.
Một trạng thái
khác là Nhập nhằng và hoảng loạn, Giải thoát,... thể hiện
tinh thần bấn loạn của các nhân vật. Điển hình là ông Đô, vợ chồng lão Bốn
Nham, anh Bách, nó tương ứng với một thế giới hiện thực tàn nhẫn trùng trùng điệp
điệp cái ác được nhà văn biến ảo theo chính những giấc mơ. Trong thế giới ấy con
người vừa hoang mang âu lo về cái vô thường, vừa bộc lộ một đời sống khác chân
thực để họ soi lại bản chất của mình. Khi tiếp xúc với các tác phẩm của Ngô
Phan Lưu, người đọc bao giờ cũng vấp phải những trở ngại bởi những hình tượng lấp
lửng lưỡng phân, lấp lửng hai mặt. Ngô Phan Lưu đã mang đến cho người đọc một
cách viết mới, đi trên con đường mỏng dính giữa ý “tại đường” mà tưởng như
“hoang đường”, những niệm có và không.
Truyện ngắn
Ngô Phan Lưu còn có biết bao những tấu khúc biến ảo khác nhau về mộng. Giữa hiện
thực non kém với một ước vọng cao xa, muốn nổi tiếng bằng những đứa con tinh thần
như nhà văn Cảo (Quyển sách). Hoặc Chuyện bực mình là
giấc mơ về “cái mâm cơm đơn sơ sâu đậm” cùng cuộc đấu “nhãn lực”, “óc lực” giữa
“tôi” và Lan Man Đại Nhân. Độc giả còn được chứng kiến một cuộc trò chuyện đầy
thú vị giữa ông Ất, Ngọc Hoàng và các nhân vật do ông Ất sáng tạo ra (Trò
chuyện). Những giấc mơ trĩu nặng tâm trạng suy tư trăn trở, nỗi ám ảnh của
người cầm bút khi xây dựng tác phẩm. Ở đây có sự phảng phất của hiện thực, nhuốm
màu hiện thực.
Đặc biệt, ngay
cả trong mơ Ngô Phan Lưu vẫn “cố gắng xây dựng cái thiện để làm đối trọng với
cái ác”. Những giấc mơ “đẹp” xuất hiện trong các truyện Trắng đêm để gặp
nỗi buồn, Vạt áo nàng tiên, Sương ngọt, Ảo giác... chính là những viên thuốc
an thần giúp con người lấy lại thăng bằng trong đời sống, đồng thời ở một số
truyện nó còn thể hiện chức năng báo mộng, nhắc nhở hiện thực với chủ nhân của
mình.
Ngô Phan Lưu
đã lựa chọn giấc mơ làm “con đường vương giả để đạt đến hiểu biết lòng người”
(Freud). Qua lăng kính của giấc mơ, nhân vật trong truyện ngắn của nhà văn hiện
lên chân thực hơn, sống động hơn, và cũng ám ảnh hơn.
4. Hình tượng
loài vật
Sáng tạo ra thế
giới loài vật, Ngô Phan Lưu cho người đọc thấy được ở ông một cây bút tài năng
về nhiều mặt. Đó là khả năng hóa thân vào sự sống của vật và đồng thời đưa lại
cho thế giới loài vật sự sống của người. Được nhà văn “phù phép”, thế giới loài
vật cũng đầy sự ray rứt ngổn ngang của những sinh linh tội nghiệp, chia ly, tan
tác đau khổ, chết chóc như chính cuộc sống của con người.
Sự việc
trong vài phút là
câu chuyện kể về việc bò Bĩnh bị anh Phách đánh đập, phải cày vườn khi đất đang
khô. Nhưng đau đớn hơn là bê con, nó xót xa khi thấy mẹ mình bị hành hạ. Hành động
“chống đối” của con chó Ki lao vút đến cướp chiếc roi chạy biến ra ngõ, “ngăn cản”
ý nghĩ đánh chồng của chị Viên và vui mừng “vẫy đuôi xoắn tít” khi thấy chị bẻ
đi chiếc roi, thả xuống lòng mương cho “chúng trôi đi...”. Rõ ràng “đó là một
con người hoàn chỉnh tên Ki” đầy căm phẫn cái ác. Trường hợp này, nhà văn không
chấp nhận dùng cái ác hơn để chiến thắng cái ác, mà cái ác cần phải kết thúc.
Ở truyện Câu
hỏi vô vọng, Lãm kể về cuộc đời mồ côi nuôi đàn em của con gà mái “hột dầu”,
bề ngoài tưởng như chẳng có gì đáng nói nhưng đằng sau ấy là chất chứa bao tình
trạng, tâm trạng của một kiếp người. Câu chuyện như lời cảnh tỉnh về thực trạng
tha hóa “gà nhà bôi mặt đá nhau”, sự suy thoái giá trị nhân luân đạo nghĩa
trong gia đình, xã hội.
Mỗi con vật trong
truyện ngắn của Ngô Phan Lưu hiện lên thật sinh động với nhiều tính cách khác
nhau. Đó là con mèo Mướp có tật xấu rình bắt gà con, ăn vụng. Là con voi già đứng
đắn, lễ phép ở Thảo Cầm Viên. Một con dã nhân “dâm đãng”. Một tên cù lần làm biếng.
Một con chó Vện “thừa trí khôn” mà cũng rất “ngốc”. Cả cái giống chim cuốc kỳ cục
ghét cay ghét đắng tiếng còi…
Cũng trên
trang văn, người đọc bắt gặp tâm trạng hoảng sợ tột cùng của những thế lực thù
địch. Một chú thỏ con run cầm cập vì sắp trở thành bữa lót lòng của con trăn khổng
lồ. “Những chú vịt con ngộ nghĩnh nấp trong bụi rào, đang run sợ, soi qua nhánh
lá, nhìn anh…” – kẻ vừa cướp đi mạng sống đồng bọn của chúng, hay con chó
Mực sợ hãi “vùng dậy, chạy rối loạn” để tránh con người sau khi bị “thiến văn
minh, đạo đức”. Trong những thế lực thù địch đó khiến ta nhận ra sự độc ác đáng
kinh tởm dù vô tình hay cố tình của con người. Và hơn một lần, các con vật
trong truyện Ngô Phan Lưu đều biết “nói tiếng người”, biết chỉ trích, mắng nhiếc,
oán giận “sự dã man của loài người”.
Sự xuất hiện
hình tượng nhân vật loài vật trong tác phẩm của Ngô Phan Lưu có thể làm phát
ngôn viên cho con người; có khi như một dụng ý nghệ thuật; khi góp phần miêu tả
thế giới nội tâm của con người; khi làm người dẫn chuyện tài tình… tất cả góp
phần làm phong phú thêm cho thế giới nhân vật truyện ngắn Ngô Phan Lưu. Ẩn chứa
trong mỗi trang truyện về loài vật, tác giả muốn nói đến chuyện loài người, gợi
lên ở người đọc sự liên tưởng về nhiều vấn đề, cách đối xử trong mối quan hệ giữa
con người với con vật, vừa tố cáo sự hờ hững và vô tâm của “cái giống người khốn
kiếp”. Đồng thời khơi dậy phẩm chất nhân hậu cao quý của con người.
Đúng như Tô
Hoài nhận định: “Nhân vật là nơi tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy cho một
sáng tác”. Trong mỗi tác phẩm, các nhà văn đều xây dựng một hệ thống nhân vật
phù hợp với dụng ý nghệ thuật của mình. Truyện ngắn Ngô Phan Lưu mang đậm màu sắc,
dấu ấn “nông dân”, được thể hiện rõ qua hệ thống nhân vật “vương mùi khói rạ” một
cách độc đáo. Nhân vật được soi chiếu từ nhiều khía cạnh từ ngoại hình, hành động,
ngôn ngữ cho đến chiều sâu đời sống tâm lý, tâm linh bên trong vì thế mà trở
nên gần hơn, thật hơn với cuộc đời.
Phú Yên 7.2015
NGUYỄN THỊ TRÚC LY
Nguồn: NVTPHCM