Nhà văn Sơn Nam
Mới đó mà đã năm năm. Năm năm những con đường, những cơ
quan, những chùa chiền, đền miếu, những đình làng, lễ hội ở phố thị Sài Gòn hay
xóm ấp miền Nam thiếu vắng bước chân ông - bước chân của con người trải dài những
kiến thức đời mình trên những chuyến đi điền dã. Qua những chuyến đi, hồn đất,
hồn sông, hồn người như được khai quật, tô bồi trong lớp lớp phù sa của một thời
mở đất.
Ông là nhà văn Sơn Nam.
Tôi đọc văn ông từ hồi còn học trung học, nhưng biết và gặp
gỡ ông thì phải đến lúc trưởng thành. Có thể nói, đối với tôi, nhà văn Sơn Nam
là một điều gì đó vô cùng... bí mật. Bí mật đến phút cuối cùng. Hơn 30 năm quen
biết ông, từ họp hội, làm việc cùng cơ quan, cho đến lúc gần như trở thành người
"quản lý" tài chính của ông, với tôi - nhà văn Sơn Nam vẫn là một người
luôn mang đến điều bất ngờ choáng ngợp.
Choáng ngợp đầu tiên là hơn 30 năm sống ở Sài Gòn, dù rất
nổi tiếng trong "trường văn trận bút", ông vẫn là người đi ở nhà
thuê, không một tấc đất chính chủ để cắm dùi. Chuyện ông đi thuê nhà ở, lúc mới
đầu nghe nhà thơ Huỳnh Kim nói, tôi cứ ngỡ là chuyện đùa, té ra là sự thật. Mãi
đến khi tôi chính thức chuyển công tác về Hội Nhà văn Tp HCM, thì một trong những
công việc hàng đầu phải lo là làm thủ tục cho ông và cho nhà văn Lý Lan nhận
nhà. Ông thì nhận nhà trệt ở hẻm đường Đinh Tiên Hoàng, quận Bình Thạnh, gần
Trường Trung học Võ Thị Sáu; còn Lý Lan thì nhận phòng trong khu nhà góc ngã tư
Nguyễn Tri Phương - An Dương Vương, quận 5, gần khu La Kai. Chuyện này có được,
nghe đâu cũng là nhờ thư tay của ông Sáu Dân Võ Văn Kiệt. Và vì là thủ lĩnh ở
hai quận nên anh Sáu Quang Nguyễn Chơn Trung (Bình Thạnh) và anh Năm Nghị Phạm
Chánh Trực (quận 5) phải đảm nhiệm. Bình Thạnh thì gần lăng Ông Bà Chiểu cho
nhà văn Sơn Nam tiện việc đi lại tham gia Ban tế lễ lăng Lê Văn Duyệt; còn quận
5 thì không xa trung tâm người Hoa ở Chợ Lớn để nhà văn gốc Hoa Lý Lan không xa
nguồn cội. Có thể nói, từ khi lên Sài Gòn làm báo viết văn năm 1955 đến khi được
có căn nhà mang tên chủ hộ là mình, nhà văn Sơn Nam đã có hơn 30 năm sống ở Sài
Gòn trong tư thế của người trắng tay về tài sản vật chất, chỉ có tài sản tinh
thần, do bức bách của cuộc sống, phải viết lách để nuôi sống bản thân và gia
đình, nên mới có nhiều tác phẩm. Hai mươi năm ở Sài Gòn, ông là người làm nghề
viết tự do, không trực thuộc một đơn vị quản lý nào cả, cho nên phải tự mình lo
cho mình nhiều thứ, chứ chẳng có được sự ưu tiên ưu đãi nào. Mãi đến ngày Sài
Gòn giải phóng, ông mới trở thành cán bộ sáng tác của Hội Văn nghệ thành phố
Sài Gòn - Gia Định, sau đó năm 1981 thì được biên chế chính thức trong đội ngũ
cán bộ sáng tác của Hội Nhà văn trước khi nghỉ hưu năm 1992.
Choáng ngợp thứ hai là dù viết khá nhiều sách, nhưng hầu
như ở nhà ông không còn quyển sách nào của ông cả, cho dù là một bài báo, hay một
mẩu truyện ngắn, một trang bản thảo lưu. Tất cả sáng tác cũ mới của ông đều được
viết tay hay đánh máy độc bản và được giao cho bộ phận sử dụng liên quan như
toà soạn, nhà xuất bản hay nhà in lưu giữ. Còn bản thân ông thì lại lưu giữ
sách vở của người khác để làm tài liệu tra cứu, phục vụ cho việc viết lách của
ông. Có lẽ một phần do điều kiện chỗ ở không cho phép ông có thư viện riêng ở
nhà để tra cứu, nên có thể nói những địa chỉ ông thường lui tới, la cà là những
nơi có nhiều sách tham khảo và nhiều tài liệu lưu trữ. Nghe nói rằng, thời ông
quen nhà văn, nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển lúc ông mới chân ướt chân ráo lên
Sài Gòn, thì cái thư viện nhà ông Sển với vô số tài liệu lưu trữ lý thú là nơi
gợi mở cho ông viết cuốn "Tìm hiểu đất Hậu Giang". Cuốn sách này ra đời
sau cuốn "Chuyện xưa tích cũ" in lần đầu năm 1957, sau đó ông cùng với
nhà báo Tô Nguyệt Đình cùng đứng tên viết và bổ sung thêm một số mẩu chuyện để
có độ dày như hiện nay. Còn tập truyện ngắn "Hương rừng Cà Mau" thì
mãi đến sau mùa xuân năm 1962 mới xuất bản, nghĩa là sau gần 7 năm ông từ quê
nhà Rạch Giá lên xứ Sài Gòn. Có thể nói "Tìm hiểu đất Hậu Giang" là tập
sách biên khảo đầu tiên được viết dưới dạng văn chương lôi cuốn và thú vị. Nó
có số liệu, có dẫn chứng, nhưng vẫn ngồn ngộn chất thi hứng của một người sáng
tác, người viết văn hơn là của một nhà khoa học kinh viện.
Sơn Nam có thói quen rất lạ là không bao giờ tặng sách
cho ai, dù người đó thân quen đến cỡ nào. Ông cho rằng, người đọc quý trọng
mình thì trước hết phải bỏ tiền túi ra, đồng tiền làm từ công sức lao động của
mình mà có. Mua sách và xin chữ ký thì ông sẵn sàng ký tặng. Cho nên dù trước
giải phóng, lần đầu in tác phẩm nào cũng có những bản đặc biệt, có đánh số hoặc
ghi ký hiệu, nhưng dường như ông không còn bản sách nào trong số đó cả. Thậm
chí, khi ký kết giao toàn bộ bản quyền tác phẩm của mình cho Nhà xuất bản Trẻ
vào tháng 3-2003, ông cũng chỉ giao cho Nhà xuất bản Trẻ thêm chưa tới 10 đầu
sách, chưa kể những đầu sách đã in ở Nhà xuất bản Trẻ. Còn lại là tên tác phẩm
thôi. Nhà xuất bản phải đi tìm, đi sưu tập để có được.
Sau những hoạt động kỷ niệm 300 năm Sài Gòn - thành phố Hồ
Chí Minh với những bài báo, bài viết, cuộc trả lời phỏng vấn phát thanh và truyền
hình, những buổi nói chuyện ở cơ quan đơn vị, hình ảnh Sơn Nam như thường trực
trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhà văn lại trở lại với những hoạt động
thường ngày của mình. Ông lại đi, lại đi, hết miền Đông lại về miền Tây. Ông đi
như một thói quen không thể nào bỏ được. Và rồi, khi khả năng viết dài không
còn đủ, và cũng theo gợi ý của Nhà xuất bản Trẻ, ông tập trung viết lại chuyện
đời mình từ ấu thơ cho đến lúc bấy giờ, nhằm giúp cho bạn đọc có thêm cơ sở để
tiếp cận với thời và thế. Ông cứ viết theo từng giai đoạn, thong dong mà không
gò ép, vả lại ông cũng chẳng đảm nhiệm vai trò quan chức gì to tát trong suốt
cuộc đời mình, cho nên hồi ký cũng chẳng có gì phải tô, phải vẽ cho "ra
dáng". Ông viết từng giai đoạn ngắn, không quan tâm đến việc đặt tên cho từng
thời kỳ, khiến biên tập viên là tôi phải hỏi ý ông về tên sách cho mỗi tập khi
xuất bản. Những tập hồi ký nhỏ ấy thật ra không nhỏ một chút nào. Nó dung chứa
một giai đoạn lịch sử một cách tương đối khách quan, không nhuốm màu chủ kiến.
Nó thật sự là tiếng lòng của người thường dân, đặc biệt là người thường dân cầm
bút. Bốn tập hồi ký với hơn 500 trang in được viết trong vòng hơn 3 năm, trong
đó có nhiều đoạn viết tay, đôi đoạn đánh máy, và dăm ba đoạn là được cắt từ một
số bài báo rồi chua thêm đôi ba câu dẫn. Về chữ viết, càng về già, chữ viết ông
càng sít lại, nhỏ hơn và nhiều khi thiếu nét. Người biên tập là tôi nhiều khi
phải ngồi phiên chữ ra cho rõ để kỹ thuật viên có thể nhập liệu được. Dù khó
khăn nhiều nhưng cuối cùng bốn tập hồi ký "Từ U Minh đến Cần Thơ",
"Ở Chiến khu 9", "Hai mươi năm giữa lòng đô thị" và
"Bình An" cũng đã lần lượt ra mắt bạn đọc. Có thể nói hồi ký là 4 tập
sách dài hơi cuối cùng mà nhà văn viết, bởi sau đó ông chỉ viết ngắn, và cho đến
năm 2005, sau khi bị tai nạn đụng xe thì gần như không viết gì nữa.
Được dịp đi ngao du cùng ông về miền Tây, ra Hà Nội trong
những ngày hội nghị viết văn tôi càng lúc càng thấy kiến văn của ông quả thật
hơn người. Bên trong cái thân xác gầy mòn yếu ốm là cả một nghị lực phi thường,
một tài năng chăm chỉ giũa mài và một tấm lòng vị tha đến bao la bát ngát. Nhiều
người dân nghèo nhập cư nơi ông tạm ở trong những ngày rời gia đình sống lang
thang ở Gò Vấp đã có công ăn việc làm, con cái được học hành nhờ vào tinh thần
Mạnh Thường Quân của ông. Khi chưa bị bệnh và trở về nhà ở đường Đinh Tiên
Hoàng, mỗi năm khi đến đầu năm học và tới dịp lễ Tết, tôi thấy ông lại đề nghị
xuất tiền trong nguồn ngân quỹ do tôi tạm quản lý để mua sách vở, cặp táp và
quà bánh tặng các cháu nhỏ nghèo. Ông còn đích thân đến trường để xin cho các
cháu được vào học trường công lập bằng uy tín cá nhân của mình. Hẳn người dân
trong xóm Trũng ở phường 7, Gò Vấp chẳng thể nào quên hình ảnh của ông - nhà
văn Sơn Nam. Một hình ảnh mà có lẽ họ sẽ chẳng bao giờ được gặp lại. Hình ảnh một
ông già nhỏ thó, kính trắng trễ mũi, điếu thuốc luôn đỏ trên môi, thường xuyên
ngồi quán cà phê ở Nhà Văn hóa quận Gò Vấp trên đường Nguyễn Văn Nghi (gần ngã
năm Chuồng Chó), chuyện trò với nhiều hạng người, nhiều loại người, hoặc âm thầm
rút vào một góc thư viện để đọc sách và nghiên cứu. Một con người bình dị đến
tuyệt vời như thế, một con người chân đi không biết mỏi, mà những năm cuối đời
phải nằm nhà quả là một... bất hạnh lớn lao.
Dù sao ông cũng giã từ cuộc đời, giã biệt chúng ta đã
tròn năm năm. Một chút hồi tưởng để nhớ về ông trong những ngày tháng này sẽ
làm chúng ta yêu hơn những trang văn ông để lại cho đời, cho mỗi con người đã đọc
ông trên muôn dặm đường đời.
PHẠM SỸ SÁU
Theo VNCA