Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên và bạn bè
Ông làm thơ
hay – điều đó là hẳn nhiên, nhưng chuyện tình được “rêu rao” trong thơ ông khiến dư luận hết sức chú ý.
Nguyễn Tất Nhiên yêu rất thật và thơ
ông cũng phản ánh quá thật những tâm tình nóng hổi khi yêu làm cho giới
bạn đọc, nhất là học sinh, sinh viên đều có những đồng cảm sâu sắc.
Duyên của tình ta
con gái Bắc.
Nguyễn Tất Nhiên tên thật là Nguyễn Hoàng Hải, sinh năm
1952, tại Biên Hoà (Đồng Nai). Năm đệ tứ (lớp 9), ông để ý đến một cô bạn học
người Bắc, tên Bùi Thị Duyên rất xinh đẹp. Chính vào năm đó, Nguyễn Tất Nhiên bắt
đầu làm thơ. Thật đáng kinh ngạc, những
bài thơ đầu tay đã có sự cuốn hút lạ thường nên chỉ vài năm sau đó ông đã sớm nổi danh. Với những bài thơ này – chủ yếu viết cho Duyên, Nguyễn Tất
Nhiên đã tập hợp in thành tập mang tên “Thiên tai” khi học lớp đệ nhất
(lớp 12) và thân hành mang đi bán tại các lớp trong trường.
Khi tập thơ phát hành, Nguyễn Tất Nhiên nổi tiếng ngay,
và vì thế ở Biên Hoà, người ta bắt đầu
đồn thổi về chuyện tình Duyên – Nhiên khắp nơi. Sau này, Bùi Thị Duyên kể:
“Tụi này biết
nhau từ hồi nhỏ, lúc đó còn ngây thơ, tôi chưa nghĩ gì, còn Nguyễn Tất Nhiên có nghĩ gì hay không thì
tôi không biết. Gặp nhau, biết nhau từ lúc 14 – 15 tuổi. Tôi được Nhiên tặng một
quyển thơ mà như anh nói chỉ có 3 bản
chính đặc biệt (trong số 100 bản), một cho Nhiên, một bản cho tôi, và một bản
cho một người quan trọng nào đó. Tôi biết sự hình thành quyển thơ là từ tôi mà ra chứ không phải không,
nhưng thật ra chúng tôi chẳng có gì hết, bạn bè trong lớp ai cũng biết.
Dĩ nhiên là tôi rất xúc động vì một quyển thơ viết cho tôi. Nhưng tôi đã gặp và nói với Nguyễn Tất Nhiên rằng
mình chỉ là bạn thôi, nếu Nhiên muốn đi xa hơn nữa thì tôi không gặp Nhiên đâu.
Sau đó anh ấy cũng công nhận chỉ muốn là bạn, nhưng thật ra nói thế cho qua để mà còn tiếp tục được gặp tôi”.
Cũng cần được nói thêm, ở Biên Hoà thời ấy có rất nhiều
nhà thờ. Là người theo đạo, Bùi Thị
Duyên hay đi lễ, và những buổi sáng hay chiều, anh chàng làm thơ si tình
Nguyễn Tất Nhiên thường ngồi trong
quán cà phê bên đường để ngắm nhìn người đẹp đi ngang qua. Ắt hẳn đã nhận ra tình mình chỉ là đơn phương,
thơ của ông viết cho Duyên đa phần là thở than, trách móc, có khi rất… dữ dội.
Bài thơ đầu
tiên ông làm cho Duyên đã có tên là “Khúc tình buồn”, sau đó nhạc sĩ Phạm
Duy phổ thành bản nhạc “Thà như giọt
mưa” hầu như ngày nào cũng được phát trên Đài phát thanh Sài Gòn, được
giới học sinh, sinh viên mua, chép, chuyền tay nhau với tất cả sự thích thú vốn
có cũa tuổi trẻ:
“Thà như
giọt mưa
Vỡ trên mặt Duyên
Để ta nghe thoáng
Tiếng mưa vội đến
Những giọt run run
Ướt ngọn lông măng
Khiến người trăm năm
Đau khổ ăn năn
Khiến người tên Duyên
Đau khổ ăn năn
Khiến người tên Duyên
Đau khổ muôn niên”.
Với cái tên
Duyên được “rêu rao” trong ca từ một cách thê thiết như thế, cảm xúc của người
nghe như được nhân lên gấp bội, cho nên bản nhạc cũng như tên tuổi của Nguyễn Tất
Nhiên nhanh chóng được lan truyền rất rộng rãi.
Tiếp sau bản nhạc đó, và ngoài tập thơ “Thiên tai”, Nguyễn Tất Nhiên còn tiếp tục làm nhiều thơ “ai oán” cho Bùi Thị Duyên. Như bài “Duyên của tình
ta con gái Bắc” với những câu… ấn tượng:
.............
Nghe nói em vừa thi rớt Luật
Môi trâm anh tàn héo nụ xa vời
Mắt công nương thầm khép mộng chân trời
Xin tội nghiệp lần đầu em thất vọng!
(Dù thật sự cũng đáng đời em lắm
Rớt đi Duyên, rớt để thương người!)
...........
Thế nhưng, dường
như trái tim của Bùi Thị Duyên vẫn không hề mềm sũng trước những bài thơ ướt át
đó, thậm chí ngược lại đã có nhiều hờn trách từ phía gia đình bà dành
cho nhà thơ tài hoa si tình.
Cả dư luận,
trong khi thán phục, tìm đọc thơ của Nguyễn Tất Nhiên cũng bắt đầu tỏ ý
phê phán ông “độc ác” với người-tình-không–trái- tim Bùi Thị Duyên. Để đến nỗi,
khoảng năm 1973, Nguyễn Tất Nhiên thật sự mệt mỏi (chữ của ông hay dùng trong
thơ) với cuộc tình tuyệt vọng
của mình và làm bài thơ coi như là
bài cuối cùng dành cho Duyên, trong đó ông “dũng cảm” tự nhận mình là một
“tên quái đản”, là người “cầu danh vọng
trên nước mắt người tình” như
một tạ lỗi:
Năm năm trời... ta làm tên quái đản
Cầu danh trên nước mắt của người tình
Năm năm trời có nhục
có vinh
Có chua, chát, ngọt,
bùi, cay, đắng...
Có hai mái đầu chia
nhau thù oán
Có thằng ta trút nạn
xuốn vai em!
Năm năm trời... có
một tên Duyên
Ta ca tụng, rồi
chính ta bôi lọ
Tình ta đẹp nhưng
tính ta còn nít nhỏ
Nên lỗi lầm đã đục
màu sông
Nếu em còn thương
mến tuổi mười lăm
Xin nuốt hận mĩm môi cười xí xóa
Hồn ta đẹp nhưng đời ta thảm quá
..........
(Tạ lỗi cùng
người)
Em hiền như ma soeur.
Cũng trong thời
kỳ Nguyễn Tất Nhiên học đệ nhất (lớp 12) và xuất bản tập thơ “Thiên tai”, ông
có chú ý đến một cô bạn học chung trường khác tên là Nguyễn Thị Minh Thuỷ.
Minh Thuỷ không đẹp bằng Bùi Thị Duyên nhưng cũng xinh xắn, dễ thương, học giỏi nhất trường,
có thể nói là tài năng toàn diện, đặc biệt là hết sức dịu dàng. Đã biết
chắc rằng tình yêu mình dành cho Duyên là vô vọng, Nguyễn Tất Nhiên tỏ ra săn
đón Minh Thuỷ hơn. Vốn có bản tính dịu dàng, Minh Thuỷ không tỏ ra từ chối tình
yêu của nhà thơ mà chỉ im lặng nửa
nhận nửa không. Cứ mỗi khi tan trường, đang đi bên cạnh cô bạn học, nhác thấy
chiếc Honda của Nguyễn Tất Nhiên lạng lại từ xa là Thuỷ vội đẩy bạn ra phía
ngoài, còn mình đi bên trong để tránh tiếp xúc trực tiếp. Những lần như
thế, thư từ, quà cáp của nhà thơ được
cô bạn nhận giúp và sau đó chuyển lại cho Thuỷ. Bà kể về thời đó: “Có lần anh ấy
dúi vào tay bạn tôi một cái bọc và nói trước khi phóng xe đi: “Thuốc bổ óc đó,
một cho Dung (tên bạn tôi) và một cho Thuỷ, ráng thức để mà học thi”. Tôi cũng
cảm động, vui vui một chút. Anh chàng làm thơ mà cũng biết điệu đó chứ”.
Tuy vậy, khi
thấy “hiện tượng” mối tình Nhiên – Duyên rộ lên cả trường, cả tỉnh, cả miền Nam, Minh Thuỷ cũng rất dè
chừng. Lần nọ, bà quyết định gom hết tất cả quà cáp, thư tình của Nguyễn
Tất Nhiên lâu nay gửi cho mình đem đến nhà bạn, nhờ bạn trả lại hết. Sự kiện đó
đã làm cho nhà thơ si tình chấn
động. Ông viết ngay bài thơ “Kẻ tự
đóng đinh tim” cho Minh Thuỷ:
Vì chẳng được cầm tay nhau kể lể
Nên chuyện tình cứ
thế, thảm hơn
Chúa cũng cau mày ngắm nỗi cô đơn
Của một kẻ đóng tim mình trên thập giá!
Chiều em đi học về,
thơm tóc thả
Áo suông eo trinh bạch
cả giáo đường
Ta ngọt ngào gọi khẽ,
người đi luôn
Nên lũ thiên thần bỗng nhiên thất chí
Bay xuống trần gian làm thi sĩ
Nâng Thánh Kinh mà hát thơ tình
Có con chiên nào
thoáng ngạc nhiên
Rồi lại đắm chìm
trong vần nhã nhạc…
Chiều em đi học về,
chim trắng bước
Ngang giáo đường
nhòe nhoẹt màu vôi phai
Có động lòng xin
hãy rút khăn tay
Lau giùm mắt kẻ xương
bày trên thánh giá
Là ta đó, em ơi, đang tầm tã
Mưa
đầy hồn đau đớn thương thân
Lỡ yêu tín đồ phải chấp nhận gian truân
Phải muối mặt giao du cùng quỷ sứ
Tính nhân hậu đã hồi nào hóa dữ
Chỉ vì em lành lặn
quên chàng
Chỉ vì em… gõ nhẹ cửa
thiên đàng
Bình thản gửi cho
hai hàng bím tóc!
Vì chẳng được ra đường
đứng, khóc
Nên hình hài cứ thế,
ốm o hơn
Đời không dung đứa tự thị ngông cuồng
Người cũng thế nhìn ta chán ghét
Ta điên đảo, người
đâu cần hay biết
Ta té lên té xuống
chẳng ai màng
Ta còng lưng
gánh bụi giữa hoàng hôn
Người lãnh đạm hất ta rơi vực tối!
Chúa cũng lắc đầu
vô phương cứu rỗi
(Cứu rỗi làm gì một
thứ nghênh ngang
Cứ nổi cơn
đòi Thượng Đế ngang hàng
Đấng Ngàn Tuổi tim già khô độ lượng !)
Ta phải chết cho Nước Trời thịnh vượng
Cho thánh thần chúc phúc bình an
Cho em còn mãi mãi
dịu hiền ngoan
Mà hãnh diện có thằng
đen đúa
Luôn nhăn nhó mặt
mày chê Chúa khó
Nhưng
cắn răng không hở miệng trách em!
Trong một bài
khác, ông còn trách cụ thể về việc Minh Thuỷ đã từng nhận thư, quà của ông như sau:
........
Ta vẫn nhớ trưa nào em ngồi hát
Ta thèm hôn lên mắt tiểu thư buồn
Ta vẫn ăn năn những lúc đón đường
Em khó chịu mà thư nào cũng nhận!
...........
(Giữa trần
gian tuyệt vọng)
Cũng là thơ hờn
trách nhưng có gì nhẹ nhàng, đằm thắm hơn chứ không “phẫn uất” như thơ
viết cho Bùi Thị Duyên, vì Nguyễn Tất Nhiên đã nhận ra vẻ dịu dàng “Em hiền như ma soeur” của Minh Thuỷ. Phải nói những
bài thơ ông viết cho Minh Thuỷ tình tứ, cảm động hơn, dù “chuyện tình”
này không ồn ào như với Bùi Thị
Duyên. Hình ảnh thắt bính tóc của Minh Thuỷ đi vào thơ ông thơ mộng lắm, ngay cả khi có nguy cơ hai người
chia tay:
Em không còn thắt bính
Nuôi dưỡng
thời ngây thơ
Anh không còn luýnh quýnh
Giữa sân trường
trao thư
.............
Em thường hay mắt liếc
Anh thường ngóng cổ cao
Ngoài đường em bước chậm
Quán chiều anh nôn nao
........
Hai năm tình
lận đận
Hai đứa cùng xanh
xao
Hai năm trời mùa lạnh
Hai đứa cùng hư
hao
........
(Hai năm tình
lận đận)
Lên đại học, Nguyễn Tất Nhiên vào học Luật khoa, Minh Thuỷ
vào Vạn Hạnh, Sài Gòn. Từ đó, hai người hầu như không còn gặp nhau. Thế nhưng, thỉnh thoảng trên báo, ông vẫn có thơ
cho Minh Thuỷ, như đoạn thơ dưới đây là một, vẫn da diết lắm:
Trời mưa , không lớn lắm
nhưng đủ ướt đôi đầu !
tình yêu , không đáng lắm
nhưng đủ làm ...
tiêu nhau !
...............
em tính còn ham chơi
lưng ngoan dòng tóc bính
môi trinh non thích
cười
chiều chiều hay giỡn nắng
tình trôị. kệ tình trôi
............
(Thơ Khởi Tự
Mê Cuồng)
Thì xin nhẫn nhục cưu mang vợ chồng
Năm 1975, biến
cố đất nước. Chính sự kiện này đã vô tình “đẩy” Nguyễn Tất Nhiên và Minh
Thuỷ gặp lại nhau, ấy là khi cả hai cùng trở về Biên Hoà sinh sống. Nguyễn Tất
Nhiên đi làm… rẫy ở Long Thành (Đồng Nai), Minh Thuỷ làm nhân viên hợp tác xã ở
thành phố. Dường như sự bình
lặng của thời kỳ này đã làm “nguội” những sôi nổi bốc đồng của tình yêu tuổi trẻ
một thời. Hai người đến với nhau có
vẻ thanh thản, hiểu đời hơn. Tình yêu từ đó được nối lại.
Năm 1978, họ chính thức làm đám cưới. Tuy nhiên, với một
tâm hồn quá mẫn nhạy, thậm chí hơi
khác thường, ngay cả khi chuẩn bị chuyển từ vị trí người tình thành người chồng, Nguyễn Tất Nhiên vẫn có những
bài thơ dự cảm rằng mình không xứng với sự dịu dàng, hiền ngoan, với kiểu
“con nhà gấm lụa thánh hiền” của Minh Thuỷ. Nghe người ta chúc “trăm năm hạnh phúc” ông cũng lo nghĩ.
Ông viết:
“Phu thê nếu đã nợ rồi
Thì tôi đâu ngại ngỏ
lời yêu em
Như
con chim mới tập chuyền
Bâng khuâng gấm lụa thánh hiền em ra
Mặt trời rực rỡ phương xa
Ở đây hạnh phúc chỉ là đau thương
............
Phu thê nếu đã buộc ràng
Thì xin nhẫn nhục cưu
mang vợ chồng
Tôi quanh năm sống hoang đàng
Cũng xin nhỏ lệ hoàn lương, khóc tình”.
(1978 ở Việt Nam)
Với những bài thơ viết cho người vừa thành vợ của mình, dễ thấy Nguyễn Tất Nhiên yêu
Minh Thuỷ thật tình – thứ tình yêu không còn ai oán, hờn trách, hơn thua như xưa nữa mà đong đầy mặc cảm, lo lắng,
làm như tạng người ông thì chỉ yêu thôi chứ đừng cưới, khi yêu thì “hùng
hổ” nhưng khi cưới thì “ăn
năn”. Như bài “Uyên ương” cái tựa
thơ đã rõ là nói về tình vợ chồng, nhưng sao mà… hoài tiếc, thổn thức với những gì đã qua:
....
Có những chiều ta
muốn hôn em, rồi khóc
Mùa bình an nào chờ
đợi uyên ương?
Nhớ hôm xưa em mảnh khảnh tan trường
Hương trinh khiết ngây ngây chiều nắng lụa
Áo đông phương còn e dè trước
gió
Ðôi tà ngoan chưa
phỉ sức tung tăng
Bụi trần gian chưa gợn vướng mi cong
Thơ ta sáng theo hồn ta trẻ nhỏ
Nhớ hôm xưa em bình minh thiếu nữ
Môi vô tư
chưa bợn nhuốm hơi người
Tay măng tơ chưa vọc nước dòng đời
Tóc bính thảnh thơi
chưa phiền khói thuốc
Ta lẽo đẽo theo
tình ê ẩm bước
Ðể chiều về nghẹ thấm
thía gian nan!
Nhớ hôm xưa
em mơ mộng nhẹ nhàng
Hay hát khẻ đôi bài tình man mác
Trang thư
nhỏ ép bông hoa, làm dáng
Cài tơ nhung lên tóc mượt, làm duyên
Cười với tình nhưng... tránh vội sang bên
Như thể sợ tình yêu làm lấm áo!
Chim trong tổ biết
chi đời giông bão
Em con cưng
nào biết tuổi lưu đày
......
Với tính cách
khác thường của Nguyễn Tất Nhiên như thế, quả nhiên cuộc sống của họ không hạnh
phúc lắm, chủ yếu là do “tính nết hoang đàng” cố hữu của Nguyễn Tất Nhiên – như
ông thường tự nhận, toàn là “nhẫn nhục cưu mang vợ chồng”. Dù đã có với
nhau hai con trai, nhưng hai người
thường xuyên có những cuộc “di cư” mỗi người một nơi mỗi khi trong nhà có
“giông bão”. Năm 1992, trong một lần Minh Thuỷ dẫn hai con “di cư” như
thế thì nghe tin Nguyễn Tất Nhiên đã tự kết liễu đời mình trong một ngôi chùa ở
California, Mỹ (họ sang Mỹ từ năm 1978).
Chính Minh Thuỷ cũng không tin ông chọn giải pháp đó dù
quá biết tính cách khác thường của
ông. Vì những chuyến “di cư”
như thế, đối với bà, chỉ là cách để ông “biết điều” hơn với vợ con mà thôi,
nhưng than ôi, “chính vì em mà thiên tài chán sống”, ông đã từng cảnh
báo như thế trong một bài thơ thời còn
độc thân rồi mà.
ĐOÀN VỊ THƯỢNG
TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM KHÁC: