Ths. Phạm Thị Trịnh (Doãn Minh Trịnh)
Trong công
trình Văn hóa tâm linh, Nguyễn Đăng Duy quan niệm: “Tâm
linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng
liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo. Cái thiêng liêng, cao cả, niềm tin
thiêng liêng ấy được đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý niệm” [1;
tr.12]. Tiếng nói tâm linh là một phần đời sống tinh thần gần gũi nhưng đầy bí ẩn
của con người. Trong bài phát biểu khai mạc Hội thảo khoa học với chủ đề “Văn học
và văn hoá tâm linh”, Nguyễn Đăng Điệp đã nhận định tâm linh: “là một
thế giới có nhiều bí ẩn mà khoa học đến nay vẫn chưa thể giải thích hết được.
Nhưng về cơ bản, có thể khẳng định, đó là thế giới gắn liền với niềm tin về những
giá trị cao cả, thiêng liêng. Hướng đến tâm linh, con người kỳ vọng hướng tới
những giá trị chân thiện mỹ” (dẫn theo [2]).
Có thể nói, tiếng
nói tâm linh thường gắn với khát vọng hướng tới một cõi sống thiêng liêng, cao
cả, giúp con người có niềm tin để vượt qua trở lực của đời sống trần tục, tạo
nên một sự cân bằng cần thiết trong đời sống tinh thần của cá nhân và nuôi dưỡng,
hoàn thiện tâm hồn họ.
Tiếng nói tâm
linh là một chủ đề khá nổi bật trong sáng tác của các nhà thơ thế hệ Đổi mới.
Các tác giả này quan niệm về vô thức, tâm linh như một đối tượng nghệ thuật cần
chiếm lĩnh, và hơn thế, như một phương tiện sáng tạo hiệu quả để đào sâu hơn
vào đời sống tinh thần phong phú, bí ẩn của con người. Đây là một nội dung hầu
như vắng bóng ở nền thơ ca Cách mạng 1945 - 1975. Trước năm 1975, trong nền thơ
này, vùng tâm linh bí ẩn mờ khuất trong đời sống tinh thần của con người gần
như là một đề tài bị bỏ quên. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên do, trong đó đặc
biệt là do hoàn cảnh chiến tranh và quan niệm sáng tạo tương ứng. Bước vào thời
hậu chiến và Đổi mới, những thay đổi to lớn trong tình hình đời sống chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội… cũng tác động nhiều tới các cây bút. Tâm linh được
quan niệm như một hiện tượng khách quan của đời sống con người và đã được nhận
thức lại một cách sâu sắc và công bằng hơn. Qua con mắt tâm linh, người ta có
điều kiện để nhìn sâu hơn vào đời sống nội tâm của cá nhân, để suy ngẫm, nhận
diện về những vẻ đẹp tinh thần bí ẩn, sâu xa, trường cửu, để nhận thức sâu hơn
về các giá trị sống thiêng liêng, cao cả… Bên cạnh đó, quan niệm sáng tạo của
nhiều cây bút thời kỳ này cũng có những chuyển biến, cách tân mạnh mẽ. Thơ giờ
đây, với nhiều tác giả, không phải là khúc tráng ca trên chiến hào mà là tiếng
nói tinh thần của con người cá nhân, cá thể. Tuy nhiên, dù đi sâu vào những
khúc khuỷu sâu kín nội tâm, vào những vùng mờ hư ảo của tâm linh, họ vẫn tìm thấy
vang hưởng của tiếng nói của một cộng đồng lớn lao – tiếng nói của nhân quần,
nhân loại. Sáng tạo về những vùng tâm linh hư huyễn, với họ, là một cách để tìm
tòi, phát hiện đầy đủ hơn về chính nội tâm cá nhân, cũng là của nhân loại, cũng
là một cách để mở rộng phạm vi hiện thực mô tả. Đó là cái “hiện thực bên
trong”- hiện thực của tinh thần, nội tâm, đối lập với cái “hiện thực bên
ngoài”- hiện thực của những cuộc đấu tranh giai cấp, chính trị… Như vậy, viết về
hiện thực tâm linh cũng là một cách để người nghệ sỹ mở rộng con đường tìm kiếm,
sáng tạo nghệ thuật. Từ đây, thay vì những đề tài, chủ đề mang tính sử thi, họ
quan tâm hơn tới đời sống thế sự, đời tư của con người. Thay vì những đề tài
chính trị lớn lao, mang tính tập thể, cộng đồng, họ chú trọng hơn đến việc đi
sâu tìm kiếm, khai thác tiếng nói nội tâm, bản thể của cái tôi cá nhân. Và cũng
rất tự nhiên, từ sự tập trung quan tâm tới con người xã hội – chính trị
trước đó, họ chuyển mối quan tâm sang con người – tư tưởng (theo nghĩa rộng),
con người - tâm linh.
Tóm lại, đây
không chỉ là một sự thay đổi đơn thuần xuất phát từ bối cảnh lịch sử xã hội.
Trên thực tế, đây là một bước chuyển mạnh mẽ trong quan niệm sáng tạo của người
nghệ sỹ thế hệ Đổi mới. Nó xuất phát từ quan niệm và nhu cầu nhận thức về đời sống
tinh thần của con người một cách đầy đủ hơn, đa chiều hơn, và do đó, cũng trở
nên sâu sắc và nhân bản hơn.
Với nhu cầu mở
rộng thế giới mô tả, các nhà thơ thế hệ Đổi mới nỗ lực tìm tòi vươn tới bề sâu
của vỉa tầng còn ẩn khuất của đời sống và tinh thần con người để khai thác, tái
hiện, chiếm lĩnh. Họ luôn khao khát lý giải, khám phá về bản chất thế giới từ đằng
sau cái hiện thực bề mặt được nhìn thấy, và mong muốn từ những hiện tượng, sự vật
rời rạc, xa lạ, nhận ra những mối liên hệ ở bề sâu trực giác, tâm linh. Đó là
lý do khiến họ đặc biệt quan tâm đến tiếng nói tâm linh bí ẩn trong đời sống
con người. Nhu cầu và ý thức sáng tạo này đã tạo nên nhiều nét khác biệt trong
nội dung cũng như thi pháp của nhiều tác giả thuộc thế hệ Đổi mới. Cũng từ đây,
một thế giới thiêng liêng, bí ẩn, lạ lùng, gắn liền với những cảm xúc hướng thượng,
cao cả… thường hiện diện trong thơ của họ. Đó là một thế giới đối lập lại với
thế giới hiện hữu trần trục của con người. Nó thường gắn liền với những hình ảnh
về cõi mơ, cõi huyền nhiệm, xứ sở của những điều u linh, cái chết…
Tiếng nói tâm
linh trong thơ Dương Kiều Minh hiện hữu ngay trong không gian ký ức của ông.
Trong tập thơ đầu tay năm 1989 - Củi lửa, Dương Kiều Minh luôn
nhắc về quê hương, tuổi thơ của mình với những hình ảnh dòng sông, cánh đồng,
khu vườn, mộ cha, mộ mẹ: Nhiều khi buồn nức nở/ngóng cánh đồng bên dòng
sông Hồng cuộn đỏ/có nấm mồ cha/nấm mồ mẹ/đấy cố hương/và đây cố hương...(Cố
hương). Cánh đồng có đám tang, có ngôi mộ: Nấm mồ không dòng mộ
chí/ nhòa trên cánh đồng/ lẽ nào là mẹ...(Bộc bạch III); Đám tang
đưa tiễn mẹ tôi vào một ngày mưa lạnh ngổn ngang cánh đồng gặt dở...(Chạnh niềm
thôn dã); Cánh đồng nơi đây, nơi cha yên nghỉ, tuổi thơ con ngày
ngày tha thẩn bên nấm mồ cha nằm...(Khúc tưởng niệm). Đối với Dương Kiều
Minh không gian xám lạnh đầy u buồn đó là hoài niệm của tuổi thơ một đi
không trở lại. Cũng là hình ảnh dòng sông, cánh đồng nhưng cả một thế giới làng
quê cùng hình ảnh, nhà cửa, mồ mả, bến sông, cánh đồng, đám ma, hình ảnh người
bà, người đàn bà gánh nước đêm... trong thơ Nguyễn Quang Thiều, tất cả chìm
trong một giấc mơ đầy huyễn ảo, dị thường:“Cỗ xe tang trôi mãi vào cơn mê/Những
con rồng gỗ vảy vàng bay lên trong tiếng kèn, tiếng trống... con nhìn thấy bà nội
mặc áo tơ tằm ngồi giữa ngàn ngọn nến/ Bà rót một bình nước mưa trong để đợi
con về” (Âm nhạc). Không gian làng quê rộng lớn có hình ảnh dòng sông gắn
liền với hình ảnh cánh đồng, có con sông Đáy hiền hòa cùng cánh đồng rau khúc,
tiếng con chim quốc... đó là ký ức ám ảnh không nguôi của Nguyễn Quang Thiều.
Hành trình về miền ký ức của Nguyễn Quang Thiều vừa huyễn hoặc vừa đậm màu cổ
tích và mang đầy tính nghi lễ: Tôi khóc những mùa rau khúc thiêng liêng
phủ đầy mưa xuân như phủ đầy cám bếp/ Nơi mãi mãi giấu vùi hơi thở của bà tôi
(Tôi khóc những cánh đồng rau khúc); Tôi quỳ xuống vốc cát vào mặt/
Tôi khóc/ Cát từ mặt tôi chảy xuống dòng dòng (Sông Đáy). Với Nguyễn Bình
Phương, những hình ảnh xuất hiện trong thơ rất quen thuộc, gần gũi nhưng
bỗng nhiên biến hóa không biết ở thế giới nào, ở trần gian hay âm giới: Khung
cửa hẹp bỗng làm anh hồi hộp/ Có một người trở về sau ánh chớp/ Lặng lẽ mang đi
hư ảnh cuối cùng (Bâng quơ); Trong thơ tác giả này, những hình ảnh
tưởng như thân quen bỗng trở nên ma quái: Cuối cùng/chiếc gương cũng
trào ra những bóng hình ứ đọng (Ở nơi không có cánh). Đọc
thơ Nguyễn Bình Phương chúng ta có cảm giác những nhân vật, hình ảnh đang chuyển
động trong không gian mộng mị dị kỳ…
Mộng mị, tưởng
tượng và linh cảm là biểu hiện cụ thể nhất của tiếng nói tâm linh trong thơ Mai
Văn Phấn. Tiếng nói của vô thức, của trực giác, tâm linh luôn ẩn hiện trong thơ
Mai Văn Phấn. Dù là trong bất cứ hình ảnh, không gian, khung cảnh nào, hiện thực
cuộc sống hay trong không khí lãng mạn của tình yêu đều được giãi bày bởi những
cảm giác ma mị lạ lùng: Lỡ vin vào bóng mây qua/Lỡ nghe đắm đuối tiếng
ma gọi đò (Gom nhặt cuối mùa); Nơi ấy da thịt em đã ngủ, bởi trong anh có tâm
linh thì thầm/Em lần theo bóng mây trôi/Thấm qua sóng lá vô hồi... Hư vô thành
yêu em... Em gọi chói chang bên kia sông mơ, con thuyền anh bỗng thành con chó
nhỏ (Em xa). Mai Văn Phấn không chỉ dừng ở việc khao khát mơ tưởng mà ông
còn muốn mình được trải nghiệm với những cảm giác vô thức trong từng giấc mơ,
tưởng tượng hồn rời khỏi xác, để lang thang khắp nơi, để hòa hồn mình cùng
cảnh vật, hoa, lá, cỏ, cây, hòa cùng thời gian.
Trong các nhà
thơ Đổi mới, không chỉ có nhà thơ Mai Văn Phấn đi tìm hiện thực qua giấc mơ, phản
ánh hiện thực qua trực giác tâm linh mà cả Nguyễn Lương Ngọc cũng đi rất xa đến
cõi bí ẩn mơ hồ của tâm giới, linh giới. Ngay từ đầu Nguyễn Lương Ngọc đã nhận
ra chiều sâu tăm tối, bí ẩn, khó nắm bắt của tâm giới con người. Nguyễn Lương
Ngọc chú ý ngay đến nụ cười của hình ảnh Di Lặc sứ: Ông cười/ không thấy
tiếng/ tiếng ấy tắt rồi/hay nó đâu đâu ngoài cõi người (Di Lặc sứ).
Hình ảnh hiện lên rõ ràng nhưng mơ hồ bất định:“Cuộc sống lạnh lẽo sao/Cuộc
chết ấm áp sao” (Lời hát). Đọc thơ Nguyễn Lương Ngọc chúng ta thường bắt
gặp những lời thơ hay nói về chốn nương thân cuối cùng, cái chết hay tận cùng của
cuộc đời. Cái chết thường trở đi trở lại, khi như một ý nghĩ bất chợt, khi như
một tiếng nói mơ hồ từ cõi xa thẳm: Những con đã sinh ra thì đã chết/Những
con chưa chết thì chưa sinh ra (Gọi hạc); Anh không thể cất mình lên nổi/Hay chọn
đây làm chỗ gửi thân (Tìm gặp).
Đặc biệt đáng
chú ý là Inrasara, người mang văn hóa Chăm hòa nhập cùng xã hội hiện đại.
Inrasara sinh ra và lớn lên tại miền đất với nhiều hình ảnh đền đài, tượng
tháp. Inrasara viết về vùng đất Chăm trong niềm say mê, cảm xúc về tình yêu quê
hương tha thiết. Inrasara đã giúp người đọc cảm nhận một nền văn hóa Chăm với
nhiều hình ảnh đền đài, tượng tháp linh thiêng, một thánh địa qua Tháp
nắng (1996), Sinh nhật cây xương rồng(1997) ,Hành hương em(1999), Lễ tẩy trần
tháng tư (2002)... Innasara cho rằng: “Người không học thấy
tháp là tháp, người có học thấy tháp vẫn là tháp, chỉ riêng thi sĩ thấy tháp là
chim”. Nhà thơ viết: Đôi lúc/ nửa đêm/ tôi nghe tháp mọc
ngang trời/Như giấc mộng như loá mắt/ tháp có mặt/ như chớp xé như âm vang/Bóng
của tháp như dòng sông ma/ trườn qua đêm tối những triều đại/đánh thức ký ức
các dân tộc/duyên nợ (hay cả không nợ nần gì) với tháp; với “Tháp
hoang” thì “nổi cộm giữa chiều trời ma quái/ung nhọt trên làn
da mềm mại/thảm rừng già xanh”.
Về lối viết,
các nhà thơ thế hệ Đổi mới đã sử dụng ngôn ngữ, kết cấu, giọng điệu rất đa dạng,
biến hóa. Trong thơ Dương Kiều Minh ranh giới quá khứ và hiện tại; giữa mơ và
thực rất mong manh, là sự hòa trộn hiện thực và ký ức. Kết cấu đồng hiện, liên
tưởng đa tuyến là kết cấu chủ đạo trong thơ Dương Kiều Minh. Ông thường sử dụng
giấc mơ, huyễn tưởng, tưởng tượng để giãy bày tiếng nói nội tâm: Mơ mơ
cánh đồng thơ ấu/không không không cả bóng người/không bước chân ngày ngây dại/cậu
bé bây giờ về nơi?(Cánh đồng thơ ấu); Con nằm ngủ như nàng công chúa út/ lang
thang qua những lâu đài/ cây lá um tùm/ cơ man là gió/cơ man là nắng.../ cánh rừng
(Giấc mơ). Trí tưởng tượng và những giấc mơ cũng tràn ngập trong thơ
Nguyễn Quang Thiều (Trong giấc ngủ muộn, Nhịp điệu châu thổ mới, Âm nhạc...).
Những cánh đồng, dòng sông qua trí tưởng tượng trở nên mênh mông, rộng lớn gắn
với nhiều ký ức của tuổi thơ. Nguyễn Bình Phương tưởng tượng Nhập chiều,
Vọng từ giá sách, Người chèo đò lạnh... là âm vọng của tiếng động, của
giọng nói.
Thơ Mai Văn Phấn
tạo nên một không gian chập chờn giữa thực và ảo, ở đó những hình ảnh, mảng màu
được gọi về từ cõi tâm linh. Trong không gian giấc mơ huyền ảo ấy “anh”
thấy mình nhảy nhót như con thú hoang: Trong giấc mơ có anh/Bên em
không hề biết/Anh xoài mình khắp những tán cây/Con dốc ven hồ, Vạt hoa trinh nữ/Con
thú hoang nhảy nhót trong mơ (Em đừng thức giấc). Có thể nói, không
gian trong thơ Mai văn Phấn là không gian mơ hồ, không bến, không bờ và không
giới hạn. Nguyễn Lương Ngọc tạo nên một khoảng trống, mơ hồ hóa về nghĩa
trong thơ, với các câu thơ rời rạc, có những âm thanh kéo dài, lặp lại: Trong
mơ đau thắt ngực/Hình xưa lững thững về... Mơ, mơ/Chân đâu/Mình đâu/Buồn tiên cảm
hát chân cầu lưu thủy (Tiên cảm);Yêu không thể giải
thoát/A...a...a....A...a...a/Người là người, ta là ta/Ta là người, người là ta/
A...a...a....A...a...a (Lời hát).
Thơ Dương Kiều
Minh dày đặc những từ đặc tả tính chất hư ảo “mơ”, “không”, “ai”: Mơ mơ
cánh đồng thơ ấu/ không không không cả bóng người (Cánh đồng thơ ấu); Ai gọi
tên?Mơ vậy/Người đâu ngờ ngợ quen (Niềm nhớ). Nguyễn Quang Thiều thường
sử dụng những thán từ: “Ơi”, “hỡi”; những biện pháp tu từ liên tưởng, so sánh,
nghịch dị, nhân hóa: Sông Đáy ơi! Chiều nay tôi trở lại (Sông
Đáy). Mai Văn Phấn thường sử dụng cấu trúc thơ tự do, thơ không có vần
điệu. Hình thức thể hiện này cho thấy nhà thơ không muốn bị đóng khung trong một
khuôn mẫu nào mà tự do tưởng tượng, bay bổng: Những bông lau/Phơ phát/Từ
không định/Bay vào hư vô... (Tạ ơn bông lau). Liên tưởng, so sánh
cũng là thế mạnh của Mai Văn Phấn, tạo nên sự độc đáo trong thơ Mai Văn Phấn: Lỡ
vin vào bóng mây qua/Lỡ nghe đắm đuối tiếng ma gọi đò (Gom nhặt cuối
mùa). Cách sử dụng từ ngữ gây ảo giác, mộng mị; lối diễn đạt gây ám ảnh,
mơ hồ; cách dùng điệp từ đặc trưng trong thơ Nguyễn Bình Phương: Đom
đóm lập lòe bay qua thành phố/Để lại nụ cười mơ hồ xanh (Áo đêm); Tường chói tiếng
nói chói (Miêu tả những ngày nắng); Mơ theo mưa mưa dắt anh đi (Chớp mắt Huế). Dù
mỗi nhà thơ có cách kiến tạo câu, đoạn thơ khác nhau, rất biến hóa, nhưng tựu
trung, những lối diễn tả đa dạng đó đều có tác dụng gợi lên một không
gian hư ảo, lạnh lẽo đến lạ lùng, đến rợn ngợp.
Đi sâu vào thế
giới tâm linh, các nhà thơ có thể bộc bạch mọi ẩn ức, dằn vặt trong đời sống thực.
Đọc thơ Dương Kiều Minh, chúng ta cảm nhận thơ ông tràn ngập nỗi buồn, luôn trằn
trọc, dằn vặt, giằng xé cho thấy một đời sống nội tâm không thanh thản. Ông coi
đời chỉ là cõi tạm, gửi ở đấy con người thực thể nhưng tâm hồn sống trong hoài
niệm, bơ vơ cô độc và không khi nào không buồn. Nỗi buồn và cô độc khiến cái
tôi đằm sâu trong triết lý. Phơi trải trên những trang thơ ấy là rất
nhiều suy tư về phận người, cõi đời. Nhưng trong nỗi buồn đó, ta bắt gặp trong
thơ ông luôn bền bỉ niềm tin hướng về cái đẹp và những giá trị tinh thần trường
cửu. Với Nguyễn Quang Thiều thơ được dựng nên trong một trí tưởng tượng mênh
mông hoang dại, giữa những hình ảnh, sự vật như không tồn tại bất kỳ mối liên hệ
nào nhưng vẫn có một sự liên kết nội tại đầy bí ẩn. Giữa cái thực và cái ảo, dữ
dội và nên thơ, quen thuộc và kỳ dị, mơ hồ và thấu suốt... tất cả phối trộn vào
nhau tạo nên một cảm giác lạ lùng, mơ hồ như sự cất tiếng của giấc mơ đẹp và dữ
dội đến ngạt thở. Cũng như Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều luôn hướng về
quê hương của mình với nỗi nhớ da diết và tình cảm thành kính của người con
tha phương. Thơ Mai Văn Phấn gửi gắm khát vọng về sự tái sinh, vẹn
nguyên, thanh khiết, trong sạch và con người trở về bản ngã chân thật. Có lẽ,
đó cũng là niềm mong mỏi của ông về sự sống vẹn toàn, giá trị thiêng liêng của
hơi thở, của cánh hoa, tiếng chim, nhựa sống, của đất đai, của nước, ánh sáng,
bóng tối, cơn mưa, tia nắng. Nguyễn Lương Ngọc không phủ nhận việc hợp nhất giữa
sự sống và cái chết, giữa đời sông trần tục và cõi tâm linh, giữa cái phù du và
vĩnh cửu. Điều này lý giải tại sao thơ Nguyễn Lương Ngọc luôn có những mô tip đối
lập giữa cái chết và sự tái sinh, sự ra đi và trở về như: “Run rẩy như
vừa sinh lại...” (Cảm nhận); “Từ nước sinh ra/ Mai có nước ta về”
(Từ nước).Với Inrasara ngủ yên hay còn phiêu bạt trong quá khứ tìm về cội
nguồn Chăm, tìm về thánh địa để làm hồi sinh một nền văn minh từng bị
lãng quên và lu mờ: Ôi! Linh hồn tháng Mười/mà giấc mơ được tạc từ bóng hoa
dại/đã rụng lâu rồi ở đồi tuổi thơ/đêm nay chợt sáng lên run rẩy (Những linh hồn
tháng mười). Thơ Nguyễn Bình Phương, Inrasara, Trần Tiến Dũng… cũng thể
hiện được chiều sâu của tâm thức khi đi vào thế giới tâm linh.
Như vậy, khai
thác, mô tả tiếng nói tâm linh như một đối tượng thẩm mỹ, các nhà thơ hướng tới
cái đích có thể chiếm lĩnh sâu sắc, rộng rãi hơn đời sống tinh thần, nội
tâm con người hiện đại và điều đó cũng góp phần tạo nên sự khác
biệt khá rõ trên phương diện đề tài, chủ đề, lối viết của các nhà thơ thế hệ Đổi
mới so với thế hệ cầm bút trước đó.
Những tác phẩm
văn học viết về thế giới tâm linh thường tạo được chiều sâu ám ảnh trong tâm thức
người đọc. Những điều thiêng liêng, cao cả được hiện lên qua những hình ảnh, biểu
tượng, ý niệm thể hiện khát vọng vươn tới thế giới thanh sạch và tĩnh tâm.
Chính vì thế, việc đọc thơ của các nhà thơ thế hệ Đổi mới trở nên khó khăn hơn.
Nhưng, từ một góc nhìn khác, đó cũng là một yếu tố tạo nên sức hấp dẫn riêng của
những cây bút này trong nền thơ ca Việt Nam đương đại.
PHẠM THỊ TRỊNH
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Nguyễn Đăng Duy
(2001), Văn hóa tâm linh, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
- Hiền Nguyễn (2014), Văn
học và Văn hoá tâm linh, những biến chuyển xưa - nay, Vanhocquenha.vn.
Nguồn: NVTPHCM