Bốn mươi
hai bài thơ trong tập thì có tới hơn ba mươi bài thơ Nguyễn Vũ Quỳnh viết về quê hương miền xa thẳm. Nếu
kể cả những bài viết về đồng đội, về Trường Sa, Trường Sơn thì anh gửi cả tấm
lòng mình cho quê hương, đất nước, cho đồng đội và những người yêu thương…
Nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh
Tôi đã đọc thơ
của Nguyễn Vũ Quỳnh khá nhiều trên các báo, tạp chí và trên mạng. Thế nhưng chỉ
rải rác đâu đó, đủ để ấn tượng một giọng thơ, một cái tên đáng nhớ trong làng
thơ đông đúc, vui vẻ ở xứ ta. Cho đến khi tập thơ “Chép lên khoảng trời” (Nxb Hội Nhà văn2016) có trên tay thì tôi mới đọc Nguyễn
Vũ Quỳnh được đầy đủ, hệ thống và giọng thơ, chất thơ của anh mới thật sự in đậm
dấu ấn trong tôi. Thơ anh là sự rung động đẹp, những suy nghĩ đa cảm, bản lĩnh
của một người lính đã từng đi qua chiến tranh. Đặc biệt, ở tập thơ này đó là những
thao thức về một miền quê, về sự mất mát trong chiến tranh, luôn thường trực hằng
đau đáu trong anh.
Ngay bài thơ đầu
tiên được lấy tên cho cả tập - bài “Chép lên khoảng trời” - chỉ có bốn câu thôi
đã nói rõ chủ ý xuyên suốt nội dung của tác giả. “Ta đưa khát vọng thời
đương đại/ Về lại bến quê thăm miền cổ tích/ Chép lên khoảng trời xanh màu ngọc
bích/ Chuyện ngày xưa, đối thoại bây giờ”. Vâng, ta hãy cùng anh “về
lại bến quê” để cùng anh “chép lên khoảng trời” những câu
thơ thao thức “miền cổ tích”, ngập tràn những nhung nhớ
yêu thương.
Nhà thơ Giáp
Văn Thạch đã viết: “Quê hương mỗi người chỉ một/ Như là chỉ một mẹ thôi”.
Nguyễn Vũ Quỳnh cũng trong tâm trạng ấy. Quê hương trong anh là “Cánh đồng mẹ
tôi”, là “Bên bờ sông quê”, là “Sông Lam ngày trở về”, là “Quán rượu bờ sông”…để
rồi “Quá nửa đời một thời son sắt/ Nóng ngọn gió Lào bỏng rát ca dao”. Niềm
thương nhớ quê ấy thi thoảng lại ập về trong giấc ngủ, hiển hiện trong cơn mơ.
Có tới bốn lần tác giả thảng thốt trong mơ gọi quê như thế. “Bần thần lạc mất
tuổi thơ/ Đêm về tìm lại giấc mơ bắt đền”(Giấc mơ bắt đền); “Bước chân lội
khắp đồng quê/ Đêm nằm mơ cũng mớ về chợ phiên”(Qua miền ký ức); “Đất
chuyển mình rạn nứt cả giấc mơ” (Vô đề); “Đêm mơ trở lại sông quê/
Trong bâng khuâng một lối về tuổi thơ/ Như người khát gặp rừng mơ/ Chảy qua năm
tháng bến bờ sông ơi” (Bên bờ sông quê).
Quê hương tuổi
thơ anh nghèo lắm. Cái thời đạn bom, bao cấp, tất cả cho tiền tuyến, tất cả để
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược ấy, khiến cho cả nước nơi nào cũng vậy, đều phải
căng mình ra chống trọi cùng thiên nhiên, giặc giã. Hãy xem anh tả cái nghèo
thuở ấy.
“Làng tôi
thuở ấy quê mùa/ Cánh cò hoang hoải cáy cua cũng gầy/ Hạn khô như vắt cổ chày/
Dòng kênh cạn bụng tháng ngày long đong” (Cánh đồng mẹ tôi). Ví “hạn
khô như vắt cổ chày”, “dòng kênh cạn bụng” thì thật là cao thủ. Rồi thì “Bếp
nhà một góc vại dưa/ Con rô, con diếc đồng trưa chợ làng/ Bầu trời thiêu cháy cỏ
hoang/ Vẫn vang vọng tiếng dô khoan bến Sòng” (Cánh đồng mẹ tôi).
Nghèo đấy, lam lũ tằn tiệm đấy nhưng vẫn yêu đời, vẫn lạc quan ca hát. Và hình ảnh
này thật đẹp: “Cái ngày cây lúa trổ bông/ Lời ru gặt giữa cánh đồng mẹ tôi”.
Ai đã sống qua
“Cái thời đói rách triền miên/ Cá lòng tong vẫn lo tiền đủ không?” chắc
hẳn sẽ thấu hiểu cái “Nghèo chi rách cả đường làng/ Cá lẹp, rau má, khoai
lang bốn mùa” của Nguyễn Vũ Quỳnh. Tả cái nghèo “rách cả đường
làng” khéo chỉ có Nguyễn Vũ Quỳnh? Đọc thấy ngày xưa gợn ghê lắm, như te tua, tơ tướp,
xác xơ ở ngay trước mặt.
Này đây “Bếp
chiều con tép bờ sông/ Chạy qua hành mỡ ngoài đồng cũng thơm/ Quê thời bếp núc
rạ rơm/ Mặn trên lưng mẹ nồi cơm độn đầy”. Ngày ấy cơm trộn quanh năm,
có cái ăn no bụng là tốt rồi. Chỉ trong câu “Chạy qua hành mỡ ngoài đồng
cũng thơm” thôi, cũng đủ thấy cái mùi hành mỡ ngày nghèo khó thơm tho đến
thế nào rồi. Trong bản lý lịch khai vào Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh
hình như ai cũng có đoạn “thiếu ăn 3, 4 tháng trong năm”. Chả thế mà “Cái thời
bánh chưng, bánh dầy/ Tứa trong nước miếng luống cày đồng xa/ Những ngày giáp hạt
tháng ba/ Củ dong thì sượng, cây cà đang hoa” (Qua miền ký ức). Hay “Hanh
hao sương lạnh gió lùa/ Vàng hoe cả mắt những trưa học về” (Qua miền
ký ức). Cơ khổ. Thèm đến tứa nước miếng. Đói đến vàng cả mắt. Đói thèm đến thế
là cùng. Thì thế bây giờ mới nhớ.
Và đây nữa: “Thân
cò chới với bờ kênh/ Tìm con tép vặt buồn tênh đồng chiều (Bên đoạn
sông cong). “Chới với”, “buồn tênh” - những tính từ Nguyễn Vũ Quỳnh
chọn lựa và dùng thật đắc địa. Nghệ thuật câu chữ chính là chỗ này đây. Không cần
nhiều từ, nhiều lời cũng đã bật lên cái gian khổ, cái buồn rỗng của cái đói
nghèo quê hương ngày ấy.
Tập thơ “Chép lên khoảng trời” của Nguyễn Vũ Quỳnh
Viết, nhớ về
cái đói, cái nghèo của quê hương không phải để bi lụy mà chính là tác giả nhắc
nhớ cho chúng ta đã có một thời như thế. Từ trong nghèo đói, khổ đau ấy, người
ta đã vươn lên, ta đã chiến thắng để có cuộc sống như ngày hôm nay. Xin ai đó
chớ vội quên đi một thời cha anh ta đã anh dũng kiên cường vượt qua như thế.
Cái nghèo được
ghi lại trong miền cổ tích ấy dâng tràn kỷ niệm mà không bi lụy chút nào bởi ý
chí vượt qua đi đến hôm nay. Và đây là những gam màu sáng tươi, những kỷ niệm đẹp
về quê hương của Nguyễn Vũ Quỳnh. “Cánh cò lả lướt cánh đồng/ Trời như xõa nắng,
mây lồng bóng cây/ Trâu đằm như thể ngủ say/ Tiếng con chim sáo hót lay cánh diều”…
“Bướm vàng xoay gió bờ ao/ Bông hoa hồng thắm cứ xao xuyến nhìn”… “Đình làng
chín rặng mâm xôi/ Dòng sông vỗ sóng mây trôi dập dềnh/ Mặt trời đợi dưới dòng
kênh/ Chờ tôi về giữa bồng bềnh tuổi thơ” (Trở về ngày xưa). Khung cảnh
thật thanh bình, lãnh mạn. Cánh cò, trời, mây, cây, trâu, chim, bướm, sông,
tôi… với “lả lướt”, “xõa nắng”, “lồng bóng”, “ngủ say”, “xoay gió”, “vỗ sóng”,
“dập dềnh”… thật đa sắc, đa thanh, sinh động quá chừng. Đặc biệt “Mặt trời đợi
dưới dòng kênh/ Chờ tôi về với bồng bềnh tuổi thơ” thì thật thi vị và
lãng mạn. Quê thế mới là quê chứ.
Hình ảnh thật
đẹp, chỉ thôn quê mới có đã được tác giả vẽ lên bằng những câu thơ: “Thương
những bắp chân nõn nà con gái/ Vội vàng chao giữa cầu ao”; “Thơm hương cơm nếp
đầu mùa/ Khói lam chiều bảng lảng cổng thềm xưa” (Trả lại cánh đồng). Đầu
hai thứ tóc, sống giữa thị thành mấy chục năm rồi mà hình ảnh ấy còn lưu giữ, lắng
đọng mãi trong lòng tác giả. Phải đau đáu với làng quê lắm lắm, mới có được những
hình ảnh nên thơ như thế.
Nguyễn Vũ Quỳnh
“Đã lâu rồi xa bếp lửa làng quê/ Nghe tiếng gió chợt tim mình bối rối”(Nhớ)
để rồi “Quê nhà quả khế/ còn chua/ Rau mồng tơi với cáy cua/ cá thèn/ Sấu
bây giờ chín/ chưa em/ Tự dưng anh thấy khát thèm/ ngoài quê” (Tản mạn
quê nhà). Và đây, hình ảnh thật đẹp nữa lại hiện ra trong thơ anh: “Cánh cò
lửa bay qua miền nắng cháy/ Hoa sim chiều tím ngát cả đồi xanh” (Thức
một vùng quê). “Lửa”, “cháy”, “chiều tím”, “đồi xanh”… vừa rừng rực vừa man
mác, rất dữ dội nhưng cũng rất đằm sâu, lắng đọng.
Như bao trai
làng khác, Nguyễn Vũ Quỳnh cũng để lại quê nhà những mối tình thật thơ mộng
lãng mạn. “Ven đường ngày ấy cỏ may/ Còn rơi rớt gió những ngày/ lặng im/ Gần
nơi ấy giữa/ đồi sim/ Là nơi đánh mất, đi tìm/ ngày xưa” (Tìm xưa). Chắc
phải kỷ niệm nặng sâu lắm ở nơi ấy mới có những câu thơ khắc khoải như thế? Cỏ
may ven đường găm vào ký ức để những ngày rơi rớt gió bất chợt nhớ, bất chợt
thương cho tác giả cứ mải miết, cứ lặng im đi tìm “ngày xưa” đã vuột mất? Cả cô
thôn nữ kia nữa, chắc cũng chông chênh, khắc khoải cùng anh? Là nơi
đánh mất/ đi tìm/ ngày xưa. Mất cái gì chỉ họ mới hiểu thôi. Ôi mối tình đầu
thôn quê! Sao mà nhớ, sao mà thương đến thế!
Mang mối tình
đầu trong tim tha hương, đôi lúc Nguyễn Vũ Quỳnh vẫn xoáy lên trong tim mình
câu hỏi “Tôi về hẹn với ngày mai/ Tìm trong xa thẳm chờ ai một mình?” (Còn
không). Anh đã “Ra đi mang cả một thời/ Tình người, tình đất và lời quê
hương” để khi nghe tiếng “Gió đang mắc kẹt bờ tre/ Trời xanh nợ một
lời thề bão giông/ Còn không quán rượu bờ sông/ Mà sao say giữa cánh đồng giêng
hai” (Còn không). Gió mắc kẹt bờ tre, bờ sông, quán rượu những cái cớ
để tác giả nói về món nợ lớn - nợ lời thề bão giông. Thế nên, dẫu ở giữa cánh đồng
giêng hai, dẫu quán rượu không còn nữa thì Nguyễn Vũ Quỳnh vẫn say cái say của
thuở yêu đầu. Bởi vì “Màu thời gian ngỡ lãng quên/ Ngờ đâu trẻ lại trong miền
xa xăm” (Trong miền xa xăm). Để rồi “Bắt đền nỗi nhớ/ của nhau/
Dòng sông khát nắng/ tím màu hoàng hôn/ Mấy ai biết được/ dại khôn/ Có ai hôn nửa/
nụ hôn bao giờ” (Giấc mơ bắt đền). Thì thế. Tôi cũng đã viết: “Nụ hôn
đầu đời vụng dại/ em trao tôi còn ngọt đến bây giờ”. Và hôm nay bắt gặp nụ hôn
của Nguyễn Vũ Quỳnh giữa khôn dại tình đầu cũng không thể nói đó là nửa nụ hôn
được. Đã đành là thế rồi. Vậy thì cứ bắt đền nhau đi, hỡi người xưa yêu dấu!
Đau đáu nhớ
quê hương, nặng lòng cùng hoài niệm, thế nên khi anh trở về quê “Nghe tiếng
chim bắt cô trói cột/ Mà sâu lắng bần thần”. Cảnh cũ, người xưa đã
không còn nữa. “Cây thị già cũng bỏ ta đi/ Khi ruộng đồng bê tông cốt thép/
Nóng khô đốt cháy chân trời/ Tiếng chim như bất ngờ tiếng nấc”. Rồi “Những
con đường thưa mùa rơm rạ/ Khói bếp chiều cũng tắt lịm mái quê/ Cây lá vắng/
Còn chỗ nào chân chim tìm đậu?” (Góc trời quê). Thời buổi công nghiệp
hóa, làng quê cũng cuốn trong cơn lốc chuyển mình như thế. Xô bồ, ngổn ngang, gấp
gáp. Sắt thép, bê tông, lầu cao phố xá thay cho mái rạ mái rơm. Mừng đấy nhưng
cũng trở trăn lắm đấy. Bao kỷ niệm ngày xưa đã phải tìm trong ký ức. Hiện thực
cũ không còn nên càng chông chênh ưu tư hơn. Đúng là đem “Chuyện ngày xưa đối
thoại với bây giờ” trước cuộc hành trình đô thị hóa đến chóng mặt mà
ngỡ ngàng, mà xa xót. Phải chăng “Gió đang mắc kẹt bờ tre/ Trời xanh nợ một
lời thề bão giông”?
Bốn mươi hai
bài thơ trong tập thì có tới hơn ba mươi bài thơ Nguyễn Vũ Quỳnh viết về quê
hương miền xa thẳm. Nếu kể cả những bài viết về đồng đội, về Trường Sa, Trường
Sơn thì anh gửi cả tấm lòng mình cho quê hương, đất nước, cho đồng đội và những
người yêu thương. Anh viết: “Đồng đội ơi chúng ta/ Chẳng đứa
nào mà không có tên/ Khi điểm danh đứa nào cũng có/ Lúc ngã xuống trong bom rơi
đạn nổ/ Trên mộ phần tên người có người không” (Đồng đội ơi). Viết về
sự hi sinh mất mất của đồng đội, nỗi đau như thế, mấy ai viết xúc động đến như
vậy. Thơ anh tung tẩy nhiều thể loại. Lục bát nhuyễn, tứ chặt, ý hay. Có rất
nhiều câu găm vào lòng người đọc. Các thể thơ tự do, năm chữ anh sử dụng thành
thạo, biến hóa, chuyển tải được tư tưởng và tình cảm của mình. Anh không theo
hướng cách tân, hậu hiện đại, không cố tình làm xiếc câu chữ, đánh đố người đọc.
Chính vì thế mà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh dân giã, giàu nhạc điệu, chất chứa tình đời,
tình người. Đọc anh thấy hồn quê hiển hiện, lâng lâng trên từng con chữ. Tuy
nhiên, có đôi ba chỗ anh gieo vần lục bát hơi bị gần nhau nên chưa thật đã lắm.
Đó là các bài Ngày ấy (vần “ay”), Qua miền ký ức (vần “a”), Cánh đồng mẹ tôi (vần
“òng, ồng). Giá anh chau chuốt thêm ít nữa thì tuyệt.
Gấp tập thơ lại,
tôi vẫn bị ám ảnh, hút hồn với những con chữ của Nguyễn Vũ Quỳnh. Anh đã dắt
đưa tôi về với một miền quê ắp đầy kỷ niệm để thao thức cùng anh “chép lên khoảng
trời” bốn mươi hai thi phẩm cuộc đời. “Chiều nay trở lại đường quê/ Bánh xe
quen rẽ lối về ngày xưa”. Vâng, tôi đang cùng anh rẽ lối về ngày xưa đây
thi sĩ ạ. Xin chúc mừng anh với thành công của tập thơ này và tiếp tục mong chờ
những tập thơ mới tưng bừng hơn nữa.
ĐỖ XUÂN THU
______________________
Nhà
thơ Nguyễn Vũ Quỳnh tên thật là Nguyễn Như Quỳnh sinh ngày 12.9.1952 tại Tùng
Lâm, Tĩnh Gia, Thanh Hoá. Ông nhập ngũ tháng 9.1971, là Thiếu tá QĐNDVN, ra
quân 1992.
Tốt
nghiệp Khoa Ngữ văn Trường đai học Tổng hợp Hà Nội và tốt nghịêp các trường sĩ
quan chính trị, tuyên huấn trung ương. Ông có hơn10 năm làm sĩ quan chính trị
và hơn 20 năm là nhà báo.
Hiện
nay Nguyễn Vũ Quỳnh thường trú tại 1/12/16 đường D3, quận Bình thạnh Thành phố
Hồ Chí Minh.
Uỷ
viên Ban Kiểm tra Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh khoá VII (2015 - 2020).
Tác
phẩm đã xuất bản:
- Khúc
hát xa quê - thơ, NXB Hội Nhà văn 2006.
- Hai
mươi năm sau - tập truyện ngắn, NXB Văn Hóa Thông Tin 2008.
- Ru
lời yêu em - thơ, NXB Thanh Niên 2011.
- Đối
thoại với thời gian - thơ, NXB Hội Nhà văn 2013.
-
Chép lên khoảng trời - thơ, NXB Hội
Nhà văn 2017
Theo NVTPHCM