Trong bài viết
nhỏ này, chúng tôi muốn bàn riêng về một mảng đề tài đặc biệt trong thơ ông, đó
là những bài thơ, câu thơ viết
về tình yêu Hà Nội.
Nhà thơ Tế Hanh
Tế Hanh vốn nguyên quán tại làng Đông Yên, phủ Bình Sơn, nay là xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, đồng hương với hai thi
sĩ lãng mạn nổi tiếng đương thời là Nguyễn Vỹ và Bích Khê. Từ 1936 đến 1945,
ông học ở Huế và tham gia các công tác văn hóa, giáo dục của Việt Minh. Từ 1949
cho đến 1954, Tế Hanh ở trong Ban phụ trách Chi hội Văn nghệ Liên khu V. Sau hiệp
định Genève 1954, ông tập kết ra Bắc, sống và làm việc ở Hà Nội cho đến cuối đời.
Như vậy, cuộc đời Tế Hanh có hơn nửa thế kỷ gắn bó với Thủ đô. Từ nhà ông chỉ bước vài chục bước chân là ra tới hồ Thiền
Quang Hà Nội, đó đã trở thành một nguồn cảm hứng dồi dào và liên tục
trong thơ ông, từ những bài thơ của
thập niên 50 cho đến những bài thơ cuối đời.
Nếu đọc các
tác phẩm của Tế Hanh, có thể nhận thấy, một trong những chủ đề, đề tài nổi bật
trong thơ ông chính là những thi phẩm thể hiện tình yêu quê hương đất nước, bên cạnh những bài thơ về tình
yêu đôi lứa. Trong 4 bài được Hoài Thanh chọn vào Thi nhân Việt Nam đã có tới
hai bài về quê hương là Quê hương và
Lời con đường quê, trong đó bài thơ Quê hương hiện nay vẫn được đưa vào SGK Ngữ
văn lớp 8: Làng tôi vốn làm nghề chài lưới/Nước bao vây, cách biển nửa ngày
sông/Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng/Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh
cá. Sau này, Tế Hanh còn nổi tiếng với bài thơ Nhớ con sông quê hương (1956): Quê hương tôi có
con sông xanh biếc/ Nước gương trong soi tóc những hàng tre/ Tâm hồn tôi là một
buổi trưa hè/ Tỏa nắng xuống lòng sông lấp loáng/ Chẳng biết nước có giữ ngày giữ tháng/Giữ bao nhiêu kỷ
niệm giữa dòng trôi/ Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi/ Tôi giữ mãi mối
tình mới mẻ/Sông của quê hương, sông
của tuổi trẻ/ Sông của miền Nam nước Việt thân yêu.
Tôi có cảm
giác rằng, với một trái tim đôn hậu và tha thiết như Tế Hanh, có lẽ ông cũng đã
dành cho Hà Nội một tình yêu như quê
hương thứ hai của ông. Hà Nội – Thủ đô của cả nước, trái tim của dân tộc không
chỉ mang trong nó những vẻ đẹp đặc trưng mà còn là một biểu tượng về lịch sử và văn hóa. Chính ngay
trong năm 1956 (cùng thời điểm ra đời bài thơ Nhớ con sông quê hương), Tế Hanh
đã viết Bài thơ tình ở
Hàng Châu với nỗi nhớ đắm say Hà Nội. Nỗi nhớ người yêu, người bạn đời của ông đã hòa chung cùng với cái tình của
không gian quê hương xứ sở: Bàn tay
nào đã dệt nỗi lòng anh?/ Tiếng mùa xuân đem sóng vỗ bên mình/ Vơ vẩn tình chăn chập chờn mộng gối/Anh
mơ thấy Hàng Châu thành Hà Nội/Nước
Tây Hồ bỗng hóa nước Hồ Tây/Hai chúng mình cùng bước dưới hàng cây.
Dường như với
chuyến đi xa nào cũng vậy, trái tim thi sĩ luôn thao thức nhớ về Hà Nội thân
yêu, nơi có một bóng hình phụ nữ đang ngày đêm trông ngóng, nơi có mùi hoàng lan mùi hoa sữa ngọt ngào
trên những con đường quen, nơi có những mặt hồ thơ mộng với từng hàng cây in
bóng. Bài thơ Nhớ về Hà Nội hôm nay được viết trong chuyến đi công tác ở Kavkaz
tháng 10/1979 là một thi phẩm như vậy: Ở đây rét lắm em ơi/ Con chim én cuối đã
rời về Nam/Đêm nghe gió rít quanh thềm/ Nhớ về Hà Nội của em vô chừng/ Cuối thu
trăng vẫn sáng trưng/ Hoàng lan hoa sữa thơm lừng không gian/ Hồ Tây, Hoàn Kiếm, Thuyền Quang/Nước thu sóng sánh soi
hàng mây bay/Nhớ về Hà Nội hôm nay/Cây me cây sấu có thay lá vàng?/ Con chim én
đã về Nam/Giục anh trở lại cầm bàn tay em.
Nếu như bên
trên, chúng tôi vừa giới thiệu hai thi phẩm viết về nỗi nhớ Hà Nội khi nhà thơ
đang ở những phương trời xa xăm thì trong một bài thơ khác, tình yêu Hà Nội lại được thắp lên
ngay chính giữa lòng Thủ đô, gắn với tình yêu đôi lứa, gắn với bóng hình của một
người con gái yêu thương nay đã
rời xa. Thi sĩ yêu từng góc phố, vườn
hoa, từng bóng cây của Hà Nội. Và độc đáo hơn cả là yêu chính sự trống vắng của
một bóng hình. Điều này đã mang đến một tứ thơ độc đáo và mới mẻ cho bài
lục bát Hà Nội vắng em: Thế là Hà Nội vắng em/ Anh theo các phố đi tìm ngày
qua/ Phố này ở cạnh vườn hoa/ Nhớ
khi đón gió quen mà chưa thân/ Phố này đêm ấy có trăng/ Cùng đi một quãng
nói bằng lặng im/ Phố này anh đến tìm em/ Người qua lại tưởng anh tìm bóng cây/ Anh theo các phố đó đây/ Thêm
yêu Hà Nội vắng đầy cả em. Đọc đi đọc lại bài thơ, càng đọc càng thấy yêu thương cái tình bơ vơ ngơ ngác của người thi sĩ. Những tưởng bài
thơ sẽ rơi vào bi lụy bởi sự chia cách giữa hai con người, không biết đến ngày
nào gặp lại. Nhưng không, chàng thi sĩ đã biến nỗi trống vắng ấy thành
thi vị, coi Hà Nội như một nhân chứng
đầy hồn vía cho mối tình của mình. Thế nên, tình yêu với một bóng hình
không còn gặp lại đã được chuyển vị thành tình yêu Hà Nội, yêu thêm mỗi góc phố
hàng cây đã từng in dấu kỷ niệm của hai người.
Những năm
tháng cuối đời, tình yêu Hà Nội trong hồn thơ Tế Hanh dường như được dồn về một nơi quen thuộc,
thân thương, nơi mà hàng ngày nhà thơ có thể dễ dàng dạo bước. Đó chính là hồ
Thiền Quang. Năm tháng qua đi làm tàn phai nhiều thứ. Chàng trai Tế Hanh thuở
nào nay đã trở thành một lão niên. Cặp mắt sáng tinh anh ngày xưa bỗng bị mờ dần trong những năm cuối đời.
Nhà thơ đã tự bạch về tình yêu với hồ trong chính nỗi niềm đó. Bài thơ chia làm hai đoạn, tương ứng với hai thời
kỳ khác nhau trong cuộc đời: Tôi đi quanh hồ hàng nghìn cây số/ Bước tôi đi đo thử bước thời gian/ Trong đời
tôi những vui buồn sướng khổ/ Hồ biết không, hỡi hồ Thiền Quang (…) Đi dò
dẫm bên hồ từng bước/ Tôi thấy hồ
như một khối mơ hồ/ Tôi biết hồ nhờ nghe qua hơi nước/ Đi bên hồ như bước giữa
hư vô (Hồ Thiền Quang). So với những bài thơ viết về Hà Nội ở giai đoạn trước,
ta thấy có sự thay đổi đáng kể về sắc thái, giọng điệu, nhịp điệu. Nếu như những
bài thơ về Hà Nội ở giai đoạn trung niên sôi nổi, dạt dào, nhịp điệu lôi cuốn,
thì cho đến bài thơ về hồ Thiền
Quang, nhịp điệu thơ chậm lại, bùi ngùi ngẫm ngợi. Cùng với tình yêu cho
Hà Nội vẫn vẹn nguyên, trái tim thi sĩ có thêm những suy tư về thân phận, về kiếp người. Ngôn ngữ thơ vì
thế trầm lắng hơn mà cũng da diết,
khắc khoải hơn.
Trong số những
sáng tác của Tế Hanh có một phần không nhỏ những bài thơ viết cho thiếu nhi. Những
bài viết cho thiếu nhi hầu hết có âm hưởng trong trẻo, tươi sáng. Và ở khu vực
tác phẩm này, ta cũng thấy thấp thoáng hiện lên bóng dáng một tình yêu
Hà Nội. Bài thơ Hai ông cháu và cái
hồ được gợi cảm hứng từ chính hồ Bảy Mẫu trong công viên Lênin là một điển hình
cho những sáng tác này: Cháu mới lên bốn tuổi/ Chưa biết biển bao giờ/Mẹ bảo: biển rộng lắm/ Nhìn
xa chẳng thấy bờ/Ông đi khắp bốn biển/Trở về già mắt mờ/Chỉ còn nhớ mặt nước/Không nhớ rõ bến bờ/Một chiều sương ông cháu/ Dạo công viên Lê nin/Đến
trước hồ Bảy Mẫu/Ông cháu cùng đứng nhìn/Mở to đôi mắt bé/Cháu ríu rít:
Ơi ông!/Chỉ toàn nước là nước/Biển
là đây phải không?/Mắt ông thoáng mây qua/ Như thấy mà không thấy/Ông ôm cháu
cười xòa:/-Ừ, biển của cháu đấy/Trước hồ hai ông cháu/ Cả hai đều ngây
ngô/Cháu cho hồ là biển/ Ông thấy biển như hồ.
Nhà thơ Tế
Hanh đã đi xa tròn 10 năm. Những con phố, những hàng cây, những mặt hồ của
Hà Nội không còn được thấy bóng dáng ông chầm chậm dạo bước mỗi ngày như thể muốn ôm ấp nâng niu bao yêu thương
trìu mến. Thế nhưng tình
yêu Hà Nội ông để lại qua những vần thơ sẽ còn lại mãi trong lòng bao thế hệ người đọc. Cùng với những thi phẩm về Hà Nội,
những bài thơ tình nổi tiếng một thời như Vườn xưa, Bão, Con đường vẫn còn lắng đọng trong trái tim bao đôi
lứa đã từng yêu đương, từng đắm say những khung trời kỷ niệm…
ĐỖ ANH VŨ
Theo Tinh Hoa Việt