Nhà văn Trần Đức Tiến
Những suy ngẫm
nho nhỏ, những tâm trạng nho nhỏ, những buồn vui nho nhỏ, như một vài khe lạch
của sông suối, đánh thức người đọc sau những lo toan mệt nhoài của đời thường.
Những ý tứ này có được sau khi tôi đã gập lại cuốn đoản văn - tùy bút "Thả
hy vọng" (Nhà xuất
bản Trẻ, 2015)của nhà văn Trần Đức Tiến.
Người ta thường
nói, mọi thứ trôi qua người cầm bút, có lẽ sẽ không chỉ đơn giản là trôi qua.
Nó luôn còn lại, mắc lại, là chất liệu quý giá để nhà văn trang trải trên từng
trang sách. Điều này dường như tuyệt đối đúng với nhà văn Trần Đức Tiến. Những
chuyện nho nhỏ dọc đường ông gặp, những chi tiết nhỏ trong đời sống hằng ngày,
tưởng như chả có tí dính líu gì tới văn chương, mà lại trở thành rất văn chương
trên trang viết của ông.
Chuyện đi Yên
Tử, chuyện ăn bánh khọt, chuyện cái áo rách, chuyện ngồi quán cà phê, chuyện thả
cá phóng sinh, chuyện cái váy, chuyện ăn phở, chuyện cái nhà ngập nước... những
chuyện đời thường ai cũng gặp, cũng trải qua, như không khí để thở, như cơm ăn
nước uống, nhưng dưới ngòi bút của Trần Đức Tiến, tất cả những vụn vặt hằng
ngày đều mang một thông điệp nào đó về cuộc sống. Chẳng hạn, chuyện leo lên đỉnh
Yên Tử, ông viết:
"Không
có gì thật. Chỉ có đá và những bụi cây dại. Rừng trúc đã ở lại dưới xa. Ở lại
dưới xa "thăm thẳm mây ngàn". Ở lại dưới xa "véo von con sáo sậu".
Những câu hát nổi tiếng lãng mạn đã tự tắt trong lòng từ lâu. Chùa Đồng, đỉnh
núi, tận cùng con đường. Chỉ đá và cỏ. Và gió hoang sàn sạt thổi mòn núi từ bao
thế kỷ.
Anh chống gậy,
ngửa mặt nhìn trời. Chợt hiểu vì sao bao nhiêu người bỏ cuộc ở lại dưới xa kia.
Cứ đi đi. Đừng
nghĩ đến đích. Làm gì có đích. Đó không chừng là bài học câm lặng vĩ đại của
Yên Tử".
Có sự giật
mình nào đó trong những câu chuyện thường là chưa đầy vài ba trang sách.
Đôi khi nó khiến người đọc dừng lại suy ngẫm rất lâu, vỡ vạc ra điều gì
đó nhỏ thôi, mà rất sâu sắc. Về đời sống thường nhật của một đôi vợ chồng, lúi
húi kiếm tiền, nuôi con, cơi nới nhà cửa. Đến lúc chợt nhận ra "anh đã có
tất cả, chỉ mất đi những buổi chiều". Về đứa trẻ thành phố trên toa tàu
đang chạy ngang qua cánh đồng, nhìn thấy đàn cò trắng bay, nó hỏi: "Bố ơi
con gì kia hả bố?". Về người vợ cặm cụi ngâm thuốc hà thủ ô chữa bệnh
bạc tóc cho chồng, mà người chồng thì vô tâm đâu biết rằng vợ mình "cả một
vùng chân tóc trắng lâm râm như mầm mạ". Về anh cán bộ đi công tác mua quà
về tặng cho cô bồ trẻ, bị em chê ỏng chê eo ngay trước mặt, tiu nghỉu về gặp vợ.
Quà cho vợ chỉ là câu chào quen thuộc sau những chuyến đi xa: "Mình ở nhà
vẫn khỏe chứ". Về anh Ba Chân, người lãnh đạo phản ứng cực nhạy với
"văn hóa phong bì", người "nửa nọ nửa kia" quý hiếm trong
thời buổi ai cũng trọng vật chất, quà cáp. Một người lãnh đạo trước sau rất
trân trọng những người viết văn làm nghệ thuật, và luôn giữ cách ứng xử đặc
biệt đối với văn nghệ sĩ...
Đọc tản văn của
Trần Đức Tiến, cảm giác như được sống chậm, được thong thả đi lan man hết các
ngõ ngách trong cuộc đời, được ngồi vỉa hè ăn bánh khọt, uống cà phê Trầm, hóng
gió bờ biển, nghe những âm thanh hằng ngày, gần gũi bình dị nhất có thể. Nghe
xong rồi chợt thấy yêu thêm cuộc sống này bao nhiêu, vì những điều nho nhỏ, những
điều mà trong những toan tính vội vàng cuộc đời ta rất dễ bỏ qua. Dường như có
sự nuôi nấng nào đó trong mỗi chi tiết đời thường, một bông hoa nở, một người bạn
quý, một buổi rỗng không trò chuyện với chính mình.
Ngẫm ra, người
ta sống ở đời, đừng cao siêu to tát đến mức quên đi những nhẩn nha thong thả. Sống
chậm và sống kỹ là cách tự chăm sóc cho tâm hồn mình, cho sự phong phú nào đó
trong ý nghĩa đời mình, hơn là cứ vội vàng lao lên phía trước để giành giật lấy
có khi chỉ là sự vô nghĩa to đùng.
Tất nhiên, phải
trải nghiệm đời sống đến mức nào thì những ý nghĩa như vậy mới kết tủa trong
ngày tháng của người cầm bút. Tôi thích đọc tản văn của người đã trải đời với
nhiều thành tựu và vui buồn như Trần Đức Tiến. Là bởi ông đã ở giai đoạn xử lý
sành sỏi câu chữ văn phong, đã chiêm nghiệm sâu xa mỗi trải nghiệm của mình, đã
nhận diện đời sống bình thản, giản dị như nó vốn vậy, không thiên kiến hay
nghiêm trọng điều gì. Mỗi thông điệp trong từng trang sách như thể ông đã dùng
cả đời của mình để soi chiếu vào đó. Những trang văn như vậy tặng cho người đọc
một hàm lượng đáng kể cảm xúc và suy ngẫm.
Ở góc độ nào
đó, nó giúp người đọc nhận thức lại ngày tháng mình đang sống. Tôi rất sợ đọc tản
văn của những người ít trải nghiệm. Nó ngô nghê không thuyết phục, không làm
người đọc giật mình. Nó trôi trượt qua như những giọt nước mưa rơi trên đầu chiếc
lá.
Bởi vì, viết tản
văn để người đọc thấy hay, thấy chia sẻ, thấy thú vị, thấy cảm mến, là cực kỳ
khó. Tản văn không có nhiều chuyện, nhiều chi tiết để bám vào như truyện ngắn,
truyện vừa hay tiểu thuyết. Tản văn là những chợt hiện, những lát cắt nhỏ,
nhưng lại không được phép nhẹ hều trong cảm nhận của độc giả.
"Thả hy vọng"
là một trong không nhiều cuốn tản văn tôi đã đọc và thích. Trong cuốn sách, có
phần là tùy bút. Những tùy bút của ông viết về thế sự, về đời sống chở nặng nhiều
ngẫm ngợi cuộc đời. Nhà văn Trần Đức Tiến có chia sẻ, ông không phân biệt thể
loại nào là cao hay thấp trong văn chương. Ông gặp chuyện gì cảm thấy có một sự
thúc giục nào đó thì ông viết. Văn chương của ông thường bắt đầu từ đời thật,
và nếu có tưởng tượng thì cũng phải dựa trên những chi tiết từ đời thật. Nghĩa
là người cầm bút phải sống, trải nghiệm thật sự, không ỷ lại vào khả năng hư cấu
của văn chương.
Đối với Trần Đức
Tiến, nghề văn cũng giống như bất kỳ nghề nào khác trên đời. Tâm thế của ông,
không khoác cho văn chương sự phù phiếm nào đó như không ít người cầm bút khác
đã quan niệm. Viết văn với ông là công việc nhọc nhằn, tuyệt đối tránh những hư
danh hão huyền. Là để sẻ chia những gì ông đã trải đã ngẫm trong đời mình. Giống
như người thả cá xuống hồ vào dịp sắp Tết, thả một chút hy vọng vào đời sống. Bởi
thế, văn chương ông luôn gần gũi với cuộc đời và có chỗ đứng bền bỉ trong lòng
bạn đọc...
____________________________
Bìa sách Thả hy vọng của Trần Đức Tiến
- Thông thường giữa quãng nghỉ của hai cuốn sách, người
viết quay ra viết tản văn, như một cách thư giãn, ông có vậy không?
+ Tôi chưa khi nào cảm thấy "thư giãn" bằng
cách viết tản văn. Những đoản văn đầu tiên của tôi ra đời xuất phát từ việc
"đặt hàng" của một tờ báo mà tôi yêu thích. Họ yêu cầu: ngắn, nhân
văn. Viết ngắn, viết đều, và in được, trong khoảng thời gian khá lâu, thật chẳng
thư giãn tí nào.
- Theo trải nghiệm của ông, viết tản văn khó và dễ ở
điểm nào?
+ Dễ ở chỗ ít phải bịa như viết truyện. Còn khó là kể lại
một chuyện bình thường có thật mà không đến nỗi lảm nhảm, vô duyên.
- Đọc "Thả hy vọng", thấy ông giỏi trong việc
biến những câu chuyện bình thường đơn giản trong cuộc sống mà dường như ai
trong chúng ta cũng từng gặp đâu đó thành câu chuyện của văn học, tức là luôn
khiến người ta giật mình suy ngẫm khi đọc đến những dòng cuối cùng. Theo kinh
nghiệm viết và đọc tản văn của ông, đấy có phải là một bí quyết để viết hay tản
văn?
+ Tôi chả có bí quyết, và cũng không quan tâm đến bí quyết
khi viết văn. Nhưng tôi thích nhận xét của một người bạn khi đọc xong "Thả
hy vọng": đọc sách mà như đang ngồi nói chuyện với người.
- Trong cuốn sách của ông, ngoài tản văn, còn có
một phần là tùy bút. Trong văn học, người ta thường xếp tùy bút, tản văn ở vị
trí thấp hơn các thể loại khác như tiểu thuyết, truyện ngắn. Ông viết tất cả
các thể loại này rồi, quan điểm của ông ra sao?
+ Tiểu thuyết, truyện ngắn, tùy bút, tản văn… là những thể
loại khác nhau của văn học. Tôi không xếp cái nào cao hơn cái nào. Nhưng thích
làm cái này hơn cái kia thì có.
BÌNH NGUYÊN TRANG
Nguồn: VNCA SỐ 250/2015