Nhà thơ Vũ Hoàng Chương
Đến năm 1954
Vũ Hoàng Chương rời bỏ Hà Nội, lên đường di cư vào Sài Gòn, tiếp tục nghề
dạy học và tất nhiên là viết văn làm thơ. Hòa nhập nhanh chóng vào sinh hoạt văn nghệ miền Nam, ngay cuối năm
1954 đã cho ra mắt liền thi phẩm Rừng phong tại Sài Gòn. Năm 1959 tập thơ Hoa đăng đoạt giải nhất về thi ca. Cũng
năm này, thi sĩ sang Bỉ dự hội nghị Thi ca Quốc tế, rồi sang Thái Lan dự Văn
bút Á Châu (1964) qua Nam Tư dự Văn bút Quốc tế (1965). Từ năm 1969 đến 1973 Chủ
tịch Trung tâm Văn bút Việt Nam.
Ở Sài Gòn, Vũ Hoàng Chương có Gác Mây là nơi lui tới của anh em văn nghệ bốn phương. Được thở bầu
không khí tự do trên mảnh đất mới, khơi dậy hồn thơ bẩm sinh vốn đa tình
đa cảm, thi sĩ như nhập vào suối nguồn sáng tạo trào tuôn lai láng nên nhiều
thi phẩm tâm đắc ra đời như Tâm sự kẻ
sang Tần (1961) Cảm thông (1961) Trời một phương (1962) Lửa Từ bi ( 1963 ) Ánh trăng Đạo lý (1966) Bút nở
hoa đàm (1967) Cành mai trắng mộng
(1968) Ta đợi em từ ba mươi năm
(1970) Ngồi quán (1971) Đời vắng em rồi say với ai? (1971) Chúng ta mất hết chỉ còn nhau (1973) và Ta đã làm chi đời ta? (1974).
Ta đã làm chi đời
ta? Là một tập hồi ký, nhà thơ kể
lại chuỗi ngày tháng lang thang lêu lổng với giới văn nghệ sĩ, những cuộc ngao
du phiêu bồng đây đó thời thanh xuân tuổi trẻ trước 1954 ở miền Bắc.
Vũ Hoàng
Chương là một thi sĩ vĩ đại của văn học Việt Nam, một nhà thơ trữ tình
lãng mạn, chứa chan cả trời thơ đất
mộng lung linh. Tình thơ chất
ngất bay cao vút tận đỉnh trời lồng lộng, ý thơ nồng nàn tha thiết, cháy bỏng bao nỗi niềm rung
ngân bất tuyệt những tiếng lòng vọng lên từ sâu thẳm tâm tư.
Từ tính chất
ưa tự do phóng đãng, thích phiêu lãng tang bồng, thi sĩ bỏ xứ ra đi làm
một gã phong trần với túi thơ bầu rượu
ngất ngưởng nghêu ngao. Thời tiền chiến ở miền Bắc, hình như phủ trùm lên một bầu khí hậu u buồn thảm
đạm sao đó, khiến cho hầu hết giới thanh niên trẻ tuổi đều mang tâm trạng lạc lõng
bơ vơ, đi mà chẳng biết đi về đâu giữa
biển đời lênh đênh không bờ bến:
Nhổ neo rồi thuyền
ơi xin mặc sóng
Xuôi về Đông hay dạt
tới phương Đoài
Xa mặt đất giữa vô
cùng cao rộng
Lòng cô đơn cay đắng
họa dần vơi
Lũ chúng ta lạc
loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng
bỏ giống nòi khinh
Bể vô tận sá gì
phương hướng nữa
Thuyền ơi thuyền
theo gió hãy lênh đênh
Lũ chúng ta đầu
thai lầm thế kỷ
Một đôi người u uất
nỗi trơ vơ
Đời kiêu bạt không
dung hồn giản dị
Thuyền ơi thuyền
xin ghé bến hoang sơ
Men đã ngấm bọn ta
chờ nắng tắt
Treo buồm cao cùng
cất tiếng hò khoan
Gió đã thổi nhịp
trăng chiều hiu hắt
Thuyền ơi thuyền
theo gió hãy cho ngoan
Thuyền viễn xứ
chèo qua dòng Suối mơ huyền ảo
Văn Cao hay Con thuyền không bến bềnh bồng theo Đặng Thế Phong là những cuộc lữ
long đong của cả một thế hệ bơ vơ, ngơ ngác chẳng biết về đâu giữa ngã
ba đường. Đó là buổi giao thời xung đột giữa cái cũ và mới, giữa Đông và Tây,
giữa Cộng sản và Tư bản. Cùng thời với
Vũ Hoàng Chương có Quang Dũng, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt,
Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Tô Hoài, Thế Lữ… Hầu như trước sự bế tắt tâm
tư thời đại, tất cả những tâm hồn nhạy cảm ấy đều tìm đến men rượu say
tình cho nguôi ngoai đi nỗi sầu thế sự, Vũ Hoàng Chương cũng đắm chìm trong hương vị túy lúy cuồng ca quá đỗi trằn trọc, quằn
quại thê lương:
Trăng của nhà ai
trăng một phương
Nơi đây rượu đắng
mưa đêm trường
Ồ ! Đêm tháng sáu
mười hai nhỉ
Tố của Hoàng ơi ! Hỡi
nhớ thương
Là thế là thôi là
thế đó
Mười năm thôi thế mộng
tan tành
Mười năm trăng cũ
ai nguyền ước
Tố của Hoàng ơi ! Tố
của anh
Tháng sáu mười hai
từ đấy nhé !
Chung đôi từ đấy
nhé lìa đôi
Em xa lạ quá đâu
còn phải
Tố của Hoàng xưa Tố
của tôi
Men khói đêm nay sầu
dựng mộ
Bia đề tháng sáu
ghi mười hai
Tình ta ta tiếc cuồng
ta khóc
Tố của Hoàng nay Tố
của ai ?
Tay gõ vào bia mười
ngón dập
Mười năm theo máu hận
trào rơi
Học làm Trang Tử
thiêu cơ nghiệp
Khúc Cổ bồn ca gõ
hát chơi :
Kiều Thu hề Tố em
ơi !
Ta đang lửa đốt tơi
bời Mái Tây
Hàm ca nhịp gõ khói
bay
Hồ xừ xang xế… bàn
tay điên cuồng
Kiều Thu hề trọn kiếp
thương
Sầu cao ngùn ngụt mấy
đường tơ khô
Xừ xang xế xự xang
hồ
Bàn tay nhịp gõ
điên rồ khói lên
Kiều Thu hề Tố hỡi
em
Nghiêng chân rốn bể
mà xem lửa bừng
Xế hồ xang… khói mờ
rung
Nhịp vương sầu tỏa
năm cung ngút ngàn
Mang mang thiên địa sầu là một mối sầu thương khủng khiếp
đoạn trường. Phải chăng đó là điều thường xảy ra trong những cuộc tình du dương
thắm thiết của tài tử giai nhân ? Những cuộc tình si đầy chất tương tư ủy mị,
vì có thể làm cho người ta đi đến chỗ điên cuồng, tuyệt lộ, tự tử nếu không có
một lối thoát nào đó mở ra. Ở đây nhà thơ bế tắt chẳng biết ngõ thoát nào hơn
là say và say đắm đuối cho quên hết nỗi niềm :
Say đi em ! Say đi
em !
Say cho lơi lả ánh
đèn
Cho cung bậc ngả
nghiêng điên rồ xác thịt
Rượu rượu nữa và
quên quên hết
Ta quá say rồi
Sắc ngả màu trôi
Gian phòng không đứng
vững
Có ai ghì hư ảnh
sát kề môi
Chân rã rời quay cuồng
chi được nữa
Gối mỏi dần rơi
Trong men cháy giác
quan vừa bén lửa
Say không còn biết
chi đời
Nhưng em ơi !
Đất trời nghiêng ngả
Mà trước mắt Thành
Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngả
Thành Sầu không sụp
đổ em ơi !
Bức tường thành vách sương mù u mê ám chường đầy rêu phủ
u sầu kia tuy vô hình mà dữ dội kinh hồn, khiến cho người ta bị vây khổn, ngột
ngạt trong lùng bùng khủng hoảng, run rẩy sợ hãi, hụt hẩng chới với bởi những
trận gió từ sa mạc hư vô thổi đến một cách bất ngờ, không sao lường trước được.
Trước bao nhiêu sự việc biển dâu, nhà thơ đều im lặng chấp nhận nhưng không thể
bình thản, an tâm được khi tình yêu tha thiết đột nhiên chấm dứt nửa chừng.
Chao ơi ! Không biết vì sao cứ bàng hoàng, thảng thốt, hỡi thuyền quyên thực nữ,
hỡi thiên hương quốc sắc lặng lẽ qua cầu. Rưng rưng tiễn biệt mà đau xót lòng :
Sóng dậy đìu hiu biển
dấy sầu
Lênh đênh thương nhớ
dạt trời Âu
Thôi rồi tay nắm
tay lần cuối
Chia nẻo giang hồ
vĩnh biệt nhau
Trai lỡ phong vân gái
lỡ tình
Này đêm tri ngộ xót
điêu linh
Niềm quê sực thức
niềm quan ải
Giây lát dừng chân
cuộc viễn trình
Tóc xỏa tơ vàng nệm
gối nhung
Đây chiều hương
ngát lá hoa dung
Sánh đôi kề ngọn
đèn hư ảo
Mơ kiếp nào xa đã vợ
chồng
Quán rượu liền đêm
chuốc đắng cay
Buồn mưa trăng lạnh
nắng hoa gầy
Nắng mưa đã trải
tình nhân thế
Lưu lạc sầu chung một
hướng say
Gặp gỡ chừng như
truyện Liêu trai
Ra đi chẳng biết một
ngày mai
Em ơi ! Lửa tắt
bình khô rượu
Đời vắng em rồi say
với ai ?
Còn ai đâu mà bốc cháy, say sưa nữa, khi em là người yêu,
người tình, nàng thơ diễm tuyệt, là tri âm tri kỷ, chí cốt ruột rà nhất đã dứt
áo ra đi. Đi là đi mất đi biệt như đóa hoa vô thường rơi tàn tạ hương sắc mong
manh xuống vườn hồn tả tơi bao xác lá. Nhà thơ lãng mạn Vũ Hoàng Chương đã trọn
vẹn quăng ném hết tâm tình mình vào cuộc mộng tình yêu kiều diễm, từng nốc cạn
bầu rượu tình ái đến ly cuối mặn nồng bốc lửa hoan say chuếnh choáng, chàng rộn
ràng dấn bước nhập cuộc để khai triển, khám phá hết những mối ưu tư thầm kín,
những tình cảm nhiệt liệt thấm thía trong tận đáy lòng sâu thẳm tâm linh.
Tình và tâm cùng hòa âm thâm cảm, giao hòa thấu suốt muôn
chiều tim máu sâu xa nên đã va chạm đến thần hồn vi diệu tuyệt trần Phật giáo.
Thật vậy, thi ca Vũ Hoàng Chương đã tìm được một lối thoát ngoạn mục, đã phiêu
nhiên bay vào phương trời bát ngát Tâm Thiền uyên áo, đóng góp một phần rất lớn
vào văn học Phật giáo Việt Nam qua ba thi phẩm sáng ngời Lửa Từ bi, Ánh trăng Đạo
lý và Bút nở hoa đàm đậm đà bản sắc nhân văn. Trăng lòng uyên nguyên hiển lộ,
long lanh lấp lánh vô ngần:
Phật có bàn tay dẹp
bất bình
Cả ngàn con mắt chiếu
vô minh
Chỉ đôi tai Phật
sao nghe xiết
Tiếng khóc giờ đây
của chúng sinh?
Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển đại dương là một
cách diễn đạt sự thống khổ của nhân gian là vô số khổ lụy đoạn trường. Vậy bằng
phép lạ nhiệm mầu nào, Đức Phật có thể ra tay cứu độ hết tất cả mọi khổ đau, trầm
thống điêu linh của nhân loại được đây, hay phải tự mình chuyển hóa, thăng hoa
theo thể lệ “Tự mình thắp đuốc lên mà đi ?”
Lặng lẽ âm thầm, thi sĩ sớm bắt gặp Phật giáo Thiền tông
và lãnh hội được tinh túy của Thiền, cho nên hồn thơ đã chuyển sang hướng giải
thoát, phong quang sáng tạo chứ không còn chìm đắm trong men say rượu, say tình
như thời tiền chiến thuở xưa nữa. Cái thời buồn nôn, hư vô, chán chường ấy đã
xa như tiền kiếp, thi sĩ hồi sinh lại giữa ánh hào quang Tuệ giác siêu việt của
Hoa Nghiêm, Kim Cang, Bát Nhã quá độ vô cùng vô tận, rạt rào vô lượng vô biên.
Tuyệt vời làm sao, khi thi sĩ nhập định, cất lên tiếng
Nguyện cầu, lời đại nguyện âm thầm thâm thiết, chuyển hóa thế giới nội tâm, thể
hiện một bước nhảy đáo bỉ ngạn sang bên kia bờ. Mở đầu bài thơ, thi sĩ nêu ra một
nghi vấn, một câu hỏi trọng đại trước lý vô thường, trước lẽ sinh tử luân hồi của
kiếp người giữa vũ trụ mênh mông :
Ta còn để lại gì
không ?
Kìa non đá lở nọ
sông cát bồi
Lang thang từ độ
luân hồi
U minh nẻo trước xa
xôi dặm về
Ta là ai ? Ta là kẻ nào trong cuộc lữ trăm năm ? Phải
chăng ta là một con người sinh ra lớn lên giữa cuộc đời : Làm việc, đấu tranh,
dành dụm, tích trữ vật chất và tinh thần, rồi cuối cùng tử thần vụt đến dẫn ta
đi vào hố thẳm u linh, kinh hoàng nơi cõi chết mịt mù tăm tối ? Chết là chấm dứt
hết tất cả mọi sự hay sao ? Thi nhân sững sờ tự hỏi : “Ta còn để lại gì không
?” Khi mà “Kìa non đá lở nọ sông cát bồi”. Chới với trước vạn vật đổi thay, đất
trời thiên diễn, vô thường như thế, nhà thơ sực thấy mình từ đời thuở nào
đã xoay chuyển mãi trong vòng luân hồi sinh tử u minh, mù mù phía trước, mịt mịt
phía sau, làm kẻ phong trần khách, lang thang như gã cùng tử giữa cuộc lữ muôn
trùng… Giữa muôn trùng cuộc lữ phiêu linh, một hôm bất ngờ bỗng sực thấy:
Trông ra bến hoặc bờ
mê
Nghìn thu nửa chớp
bốn bề một phương
Ta van cát bụi trên
đường
Dù nhơ dù sạch đừng
vương gót này
Bờ bến nào huyễn hoặc, bến bờ nào vọng mê hỡi cõi hỗn độn
phù du phủ đầy hư ảo vô minh ? Khiến cho thi nhân trong giây phút nhập thần, chợt
thấy thiên thu trong một ánh chớp và bốn bề mười phương trong một giây phút thực
tại bây giờ.
Bây giờ và ở đây, cuộc lữ lại tiếp tục lên đường viễn xứ,
nhưng từ đây thi sĩ đã thoáng hiện thấy một cõi đi về cố quận ở bên trong tâm hồn
vốn trong xanh thanh tịnh. Đó là cõi quê lòng trong trẻo xanh biếc nguyên sơ,
chưa từng vướng mắc, ô nhiễm bụi phù trần, nên thi sĩ chân thành lên tiếng tỏ
bày, bộc bạch một cách thiết tha “Ta van cát bụi trên đường. Dù nhơ dù sạch đừng
vương gót này.”
Đi trên con đường trần gian cát bụi, thôi thì đủ thứ xanh
vàng đỏ trắng, muôn màu nghìn sắc dẫy đầy vẻ hấp dẫn, quyến rũ, lôi cuốn ta vào
mê lộ, túy sinh mộng tử mang mang… Nếu không tỉnh thức thì sẽ bị cuốn trôi theo
đắm chìm giữa miền điên đảo, nhào lộn tồn sinh bức bách não phiền, không lối
thoát. Vì thế, dù dơ bẩn hay trong sạch, dù thiện lành hay xấu ác… thì thi nhân
vẫn không muốn vướng bận, không thích dính mắc vào làm chi. Đó chính là bước đi
xa lìa mọi đối đãi, vượt ngoài phân biệt đúng sai, phải quấy, hơn thua, được mất…
của thế giới nhị nguyên.
Biết thế nên thi sĩ thể hiện một cách sống mãnh liệt viên
dung, sống hết mình, trọn vẹn say sưa với ngọn lửa thiêng đang bừng cháy trong
hồn. Ngọn lửa thiêng từ cõi tâm bừng sáng chói lòa cả càn khôn vũ trụ, bay lên
rực rỡ huy hoàng tận đỉnh trời thiên thanh vĩnh thúy. Với trạng thái xuất thần ấy,
lời thơ lãng đãng đi về :
Để ta tròn một kiếp
say
Cao xanh liều một
cánh tay níu trời
Nói chi thua được với
đời
Quản chi những tiếng
ma cười đêm thâu
Con người đau khổ vì mãi đấu tranh, giành giật lẫn nhau
theo kiểu sống thực dụng, chiếm hữu cái lợi trước mắt, sẵn sàng tàn nhẫn, chà đạp,
sát hại người khác để giành lợi lộc về phần mình. Nhà thơ nhạy cảm, trực thấy
rõ sự nguy hiểm của cách sống bị điều động bởi tham lam, sân hận và si mê ấy,
nên có ý cảnh giác những đầu óc thực dụng, sống như máy móc, chỉ biết tính
toán, so đo được mất, hơn thua, giàu nghèo, phải trái… theo kiểu ma quái lật lường,
xuôi ngược hồ đồ tráo trở. Đó là loại người rơi vào duy vật chủ nghĩa với quan
niệm chết là hết, nên họ chủ trương sống thỏa mãn tham dục, thỏa mãn những nhu
cầu vật chất nông cạn mà thôi. “ Nói chi thua được với đời. Quản chi những tiếng
ma cười đêm thâu.” Nói chi… quản chi… sá chi… những trò đời ma quỷ, oái oăm,
nhà thơ mỉm cười tịch nhiên bất động trong lặng lẽ xa lìa, viễn ly tất cả. Sá
gì mà chấp trước, vướng bận nhì nhằng làm chi cho mệt, phải không ?
Trên ngõ về quê quán cũ, chốn hồn tâm xanh biếc sơ nguyên
của chính minh, nhà thơ mở rộng lòng ra một cách thành tâm :
Tâm hương đốt nén
linh sầu
Nhớ quê dằng dặc ta
cầu đấy thôi
Đêm nào ta trở về
ngôi
Hồn thơ sẽ hết luân
hồi thế gian
Một phen đã nín
cung đàn
Nghĩ chi còn mất
hơi tàn thanh âm
Luân hồi chấm dứt thì Niết Bàn hiện ra. Niết Bàn chính là
cố quận đang hiện hữu giữa trái tim mình, ngay trong lòng thanh tịnh của mình
đây thôi. Chỉ cần ta “hồi đầu thị ngạn” thì hoát nhiên triệt ngộ, chứng vào cảnh
giới Niết Bàn Diệu Tâm liền lập tức. Điều đó đã có nhiều người từ ngàn xưa đến
nay thực hiện được rồi, như các vị Bồ tát, thiền sư, nghệ sĩ vĩ đại
trên mặt đất.
Nhà thơ Vũ Hoàng Chương trên con đường trở về cố quận ấy
đã từng giáp mặt, chứng kiến biết bao bậc thiền sư, Bồ tát thị hiện giữa cuộc đời,
như vào tháng 6 năm 1963 tại Sài Gòn, ngọn lửa thiêng của Bồ tát Quảng Đức bừng
cháy lên rực trời trong đêm dài tăm tối vô minh làm sửng sốt, bàng hoàng, đánh
thức cơn u mê của chế độ bạo quyền Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo, đang tàn bạo
cố tình tiêu diệt tín đồ Phật giáo. Ngô Đình Diệm cùng anh em gia đình trị độc
tài theo Chúa Trời Thượng Đế, mê muội làm tay sai nô lệ, thừa hành mệnh lệnh từ
tòa thánh Vatican đàn áp đẫm máu Phật giáo đồ Việt Nam.
Vô cùng rúng động trước ngọn lửa vô úy đầy tuệ giác sáng
ngời của Bồ tát Quảng Đức, thi sĩ xuất thần sáng tạo bài thơ Lửa Từ bi bất hủ,
ngọn lửa thiêng ấy sẽ còn cháy mãi đến muôn thuở thiên thu, vạn đại vĩnh hằng:
Lửa ! Lửa cháy ngất
Tòa Sen !
Tám chín phương nhục
thể trần tâm
Hiện thành Thơ quỳ
cả xuống
Hai Vầng Sáng rưng
rưng
Đông Tây nhòa lệ ngọc
Chắp tay đón một Mặt
Trời mới mọc
Ánh Đạo Vàng phơi
phới
Đang bừng lên dâng
lên
Ôi ! Đích thực hôm
nay Trời có Mặt
Giờ là giờ Hoàng đạo
nguy nga
Muôn vạn khối sân
si vừa mở mắt
Nhìn nhau tình
huynh đệ bao la
Nam mô Đức Phật Di
Đà
Sông Hằng kia bởi
đâu mà cát bay ?
Thương chúng sinh
trầm luân bể khổ
Người rẽ phăng đêm
tối đất dày
Bước ra ngồi nhập định
hướng về Tây
Gọi hết lửa vào
xương da bỏ ngỏ
Phật Pháp chẳng rời
tay
Sáu ngả luân hồi
đâu đó
Mang mang cùng nín
thở
Tiếng nấc lên ngừng
nhịp Bánh xe quay
Không khí vặn mình
theo
Khóc òa lên nổi gió
Người siêu thăng
Giông bão lặng từ
đây
Bóng Người vượt
chín tầng mây
Nhân gian mát rượi
bóng cây Bồ Đề
Ngọc hay đá, tượng
chẳng cần ai tạc
Lụa hay tre nào khiến
bút ai ghi
Chỗ Người ngồi : Một
thiên thu tuyệt tác
Trong vô hình sáng
chói nết Từ Bi
Rồi đây rồi mai sau
còn chi ?
Ngọc đá cũng thành
tro
Lụa tre dần mục nát
Với thời gian lê vết
máu qua đi
Còn mãi chứ còn
Trái Tim Bồ Tát
Gội hào quang xuống
tận ngục A tỳ
Ôi ngọn lửa huyền
vi
Thế giới ba nghìn
phút giây ngơ ngác
Từ cõi vô minh
Hướng về Cực Lạc
Vần điệu của thi
nhân chỉ còn là rơm rác
Và chỉ nguyện được
là rơm rác
Thơ cháy lên theo với
lời kinh
Tụng cho nhân loại
hòa bình
Trước sau bền vững
tình huynh đệ này
Thổn thức nghe lòng
Trái Đất
Mong thành Quả Phúc
về cây
Nam mô Bổn sư Thích
Ca Mâu Ni Phật
Đồng loại chúng con
Nắm tay nhau tràn
nước mắt
Tình thương hiện
Tháp Chín Tầng xây
Từ Thơ say đến Lửa Từ bi, Vũ Hoàng Chương đã đi một bước
thượng thừa hùng tráng, đầy ngoạn mục phi thường. Hồn thơ ăm ắp hơi thở hiện đại
mà vẫn giữ được truyền thống Đông phương trầm mặc. Cung bậc hào hùng từ tiếng
thơ ấy bay dậy luồng thanh khí như thắp lên ngọn lửa thơ rực hồng ý niềm uyên
tư từ ái:
Ai là người có cánh
tay hào kiệt
Trong tương lai một
sớm một chiều
Đủ sức hái cành hoa
làm bút viết
Những vần Thương
Yêu?
Những vần thơ yêu thương cuộc sống đã có biết bao nhiêu
người tiếp tục viết và viết mãi trên tờ mây trắng thiên thanh hay giữa dòng đời
mênh mông mới lạ. Đó là những tâm hồn thênh thang sáng tạo, những bạn đồng hành
cùng thi sĩ như Nhất Hạnh, Bùi Giáng, Đông Hồ, Hoài Khanh, Quách Tấn, Phạm Công
Thiện, Phạm Thiên Thư, Trụ Vũ…
Tâm đắc tư tưởng tự tại an nhiên, tinh thần giải thoát sinh
tử của Thiền, thi sĩ tài hoa Vũ Hoàng Chương đã sống một cuộc đời tỉnh thức và
siêu thức giữa bao la pháp giới, chập chùng vũ trụ vần xoay:
Bao nhiêu hạt cát bến
sông này
Đã bấy nhiêu ngàn
thế kỷ nay
Ta vượt ngàn năm đường
ánh sáng
Từ ngoài vô tận đến
nơi đây
Đêm đêm ta dõi mấy
từng cao
Tìm một không gian
mới lạ nào
Lấp lánh Quê Trời
thơ hẹn bến
Giam mình Quả Đất
mãi hay sao ?
Nhân loại ra đi chẳng
một lần
Hợp tan nào khác mảnh
phù vân
Trên đà tốc độ siêu
quang ấy
Một chuyến đăng
trình một hóa thân
Khi thấu thị được lẽ huyền vi sâu xa đó thì thi nhân đâu
còn lo sợ chi những chuyện vô thường dâu bể nữa phải không ? Thôi thì chút cơ
thể cát bụi phù du đã hóa thân giữa trùng trùng bụi cát, rồi một mai hội đủ
nhân duyên mà tựu thành một sinh thể khác hoàn toàn mới mẻ, tinh khôi hơn. Chỉ
ngậm ngùi cho người ở lại mà thôi, như thiền sư Nhất Hạnh tiếc thương thi sĩ Vũ
Hoàng Chương bị chính quyền Cộng sản bắt giam đầu năm 1976 và đã ra đi vào cuối
năm đó trong lặng lẽ ngậm ngùi:
Đêm này dù đã về
ngôi
Hồn thơ vẫn thấy
luân hồi thế gian
Bút hoa ngàn kiếp
không tàn
Đuốc thơ còn cháy
trên trang sử người
Có không mù mịt biển
khơi
Nẻo về đã rạng chân
trời thênh thang
Tỉnh say vẫn một
cung đàn
Lửa anh hào đốt
cháy tan đêm sầu
Thơ lên bay vút bồ
câu
Triều âm chấn động
phương nào chẳng nghe
Giấc mơ hồ điệp đi
về
Biển Đông sóng vỗ
kình nghê vẫn còn.
TÂM NHIÊN
Nguồn: VCV
______________
Thơ Vũ Hoàng
Chương trích trong các tập Thơ say, Mây, Rừng phong, Lửa Từ bi, Bút nở
hoa đàm.
ĐỌC THÊM VĂN CHƯƠNG PHƯƠNG
NAM: