Tô Thùy Yên từng
là sĩ quan trong quân đội Sài Gòn, từng bị đi cải tạo nhiều năm sau
1975. Nhưng đọc thơ anh, chỉ thấy đau đớn, chỉ thấy xót xa và chỉ thấy một tâm
hồn Việt không bao giờ muốn tách rời khỏi đất Mẹ của mình.
Nhà thơ Tô Thùy Yên
Cách đây chừng 25 năm, vào độ cuối xuân, tôi có viết một
bài thơ theo dạng cũ. Tôi vốn ít khi
viết dạng thơ này, nhưng khi nhìn bông hoa hồng trồng trong chậu trên
gác nhà mình, tự nhiên những câu thơ
có vần chợt đến:
“Cuối xuân
cây lá rung dìu dịu
Mình anh đối diện với hoa hồng
Con đường chợt khuất mưa rào níu
Vệt bánh xe buồn tới nẻo không
Bao người đã sống bao người sống
Nghe tiếng
kêu chi khắc khoải lòng”
(Không đề)
25 năm sau, tôi muốn mượn lại câu thơ mình để viết về thơ
của nhà thơ Việt hải ngoại Tô Thùy
Yên: “Nghe tiếng kêu chi khắc khoải lòng”.
Đúng là ở đời, dù ta muốn cách mấy, thì buồn vẫn nhiều hơn vui. “Cha mẹ sinh con trời sinh tính”
nhưng tính buồn vẫn nhiều hơn tính vui. Chỉ có điều khi ta buồn, có lẽ chất người
của ta lại nhiều hơn khi ta vui. Tôi chợt nhớ bài thơ Uống rượu với bạn
đồng hương- một bài thơ thật cảm động của nhà thơ Yến Lan - nhớ nhất đoạn
thơ này:
“Rồi năm
tháng cách xa
Thành công
chen thất bại
Có nỗi buồn
khỏe ra
Có niềm vui
chạnh mãi”
Nếu có niềm vui, khi nghĩ lại, khiến ta chạnh lòng, thì
nhiều phen một nỗi buồn thanh sạch lại khiến lòng ta như “khỏe ra”. Cái khỏe ra của tâm hồn, không phải dễ
để nhận thấy, nhưng nó hoàn toàn có thật.
Tôi nghe danh
Tô Thùy Yên đã lâu, nhưng đọc
thơ anh chậm hơn. Cũng một dịp may, khi tôi sang Paris dự Liên hoan Thơ quốc tế
năm 2003, một tập thơ của Tô Thùy Yên đã đến với tôi tại quán Foyer Viet
Nam của người bạn chủ quán - nhà thơ
Võ Văn Thận.
“Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi”
(Ta về)
Những niềm vui nho nhỏ, “vui lẻ loi” ấy nhiều khi lại sống
trong ta, giúp ta năng lượng sống nhiều hơn những “trận cười thâu đêm” mà chẳng
biết có vui thật không. Bài thơ Ta
về được Tô Thùy Yên viết sau hơn mười năm phải sống trong một trại cải
tạo hậu chiến tranh. Đó có thể là thời gian dài nhất trong đời anh, nhưng cũng
là thời gian khiến thơ anh đằm xuống một sức nặng khó tả. Đó là điều có lẽ
không nhà thơ nào muốn, nhưng khi số phận đã “gõ cửa” đời ta, thì sự nhẫn
nại chịu đựng lại làm nên một nhân cách thơ trầm tĩnh. Tôi chợt nhớ đến Josef Brodski và những vần thơ trong khổ nạn
của ông. Những vần thơ hết sức trầm tĩnh, hết sức nhẫn nại:
“anh lại
nghe tiếng hát những người tù
và tiếng bước
chân người cai tù câm lặng
anh lại tự
hát, hát trong im lìm:
Thôi từ giã nhé, tháng giêng”
(Son-nê)
Năm 1961, tạp chí Sáng Tạo (Sài Gòn) đã
in bài thơ Lễ tấn phong tình
yêu của Tô Thùy Yên. Năm ấy anh mới 23 tuổi, nhưng bài thơ dài đã xác lập trên thi đàn chiều
kích của một nhà thơ lớn sắp sửa. 34
năm sau, vào 1995, tập Thơ tuyển của Tô Thùy Yên ra đời, khẳng
định thi tâm và thi tài của nhà thơ Việt này. Nguyễn Du viết “Chữ tâm kia mới bằng
ba chữ tài”, nhưng tôi nghĩ, trong thơ, thì tâm và tài là 50-50. Phải có
đủ cả 100% đó nhà thơ mới yên lòng,
và thơ họ mới tự khẳng định. Xuất từ
tâm, nhưng qua tài, thơ Tô Thùy Yên như muốn nói, nói mãi, nói hết nỗi
lòng mình. Khi một bài thơ dài kết
thúc, ta vẫn còn muốn đọc nữa, đọc nữa, và hình như còn gì nữa mà nhà thơ muốn nói tiếp.
Thơ Tô Thùy
Yên lặng lẽ. Dù anh viết dài hay viết ngắn, thì thơ ấy vẫn lặng lẽ. Người đọc đồng cảm với thơ ấy,
cũng trong lặng lẽ. Đó là thơ của Chim kêu bãi quạnh,
hắt hiu và đau đớn:
“Cởi đôi giày vẹt, tấm áo tả
Xót xa như lột một lần da”
(Chim kêu bãi quạnh)
Thơ ấy nhiều
khi như bâng quơ, mà găm vào ta thật sâu:
“Mai có ai
về ngang quãng sông này,
Xin ném cho hòn đất hỏi thăm”
(Viễn Tây)
Khi người ta đã thấu lẽ tử sinh, đã thấu suốt phận người, thì:
“Nhớ, như cỏ, xô tràn…
Mơ, như
mây, tản mạn…”
(Đại Bình Nguyên)
Một nhà thơ
như thế, có thể gọi là đạt đạo. Thì là đạo làm người, vậy thôi:
“Ở những mối
đường tẽ ba tẽ bảy phân vân
Muốn xuống
xe, làm như kẻ lang thang xưa,
Tung cao
may rủi một đồng tiền hay một cành cây,
Nhờ tình
cờ định hướng hộ”
(Đại Bình Nguyên)
Không ai muốn rơi vào tâm trạng ấy để có thơ hay, nhưng khi đã lâm vào, thì chính
những giọt thơ buồn như rượu mạnh sẽ
giải thoát mình khỏi mọi trầm cảm. Tôi đọc bài thơ Đại Bình Nguyên của Tô Thùy Yên và chợt
thoát ra với đúng cảm giác này của tác giả khi kết thúc bài thơ:
“Nước Mỹ
này quá rộng và quá buồn
Anh không còn
muốn tự định liệu”
Bởi tâm trạng của nhà thơ Việt nhập cư hôm nay không giống với tâm trạng của những người thuở xưa
đi khai phá nước Mỹ, những chàng trai miền Viễn Tây cưỡi ngựa ngang tàng trên đồng
cỏ. Rồi ngay trong lúc đó, chợt hiện về hình ảnh một kinh thành xa lắc:
“Nắng mưa đâu chẳng là mưa nắng
Sao nắng
mưa này da diết hơn?”
Tô Thùy Yên
sinh ở Nam bộ, hai câu thơ ấy lại viết về Huế, và tôi hiểu, với một nhà thơ Việt
xa xứ, thì đất Việt đâu cũng quê nhà, đâu cũng đầy những nhớ thương day
dứt. Nhà thơ Nam bộ ấy vừa nhớ Huế,
thì bỗng nhớ ngay đến vùng sông nước quê mình:
“Mùa nước nổi qua mùa nước giựt,
Đốt tay nào
Thân Dậu niên lai?
Em về giồng
dưới, qua bưng gió,
Dạ bời bời
nỗi sậy, niềm mây…”
(Nhớ có
lần, trên bến bắc khuya, nghe một ông lão đàn hát)
Người ta nói
thơ Tô Thùy Yên vừa dân tộc vừa hiện đại, rồi có thể phân tích thi pháp thơ anh
thế này thế khác. Tôi chỉ nói đơn giản: Thơ ấy hay. Khi thơ đã hay thì
có thể nó gồm cả những gì người ta đã
nói, hoặc nó chỉ là… thơ hay. Vậy
thôi. Sao biết là thơ hay? Khi thơ ấy đi vào lòng người, thấm sâu vào tâm cảm ta, làm ta mỗi một buồn
buồn nào cũng có thể nhớ vài câu thơ ấy, thế thì nó hay rồi. Và tôi muốn
nói thêm: Tô Thùy Yên có thể rất giỏi tiếng Anh, nhưng anh chỉ có thể làm thơ bằng tiếng Việt. Điều
này cũng không cần phân tích. Tôi chỉ cảm về thơ Tô Thùy Yên khi “Nghe tiếng
kêu chi khắc khoải lòng”. Đó có thể là tiếng kêu buồn buồn xa vọng của
con bìm bịp trên miền sông nước Cửu
Long. Chỉ thế thôi.
THANH THẢO
Nguồn: NVTPHCM
ĐỌC THÊM VĂN CHƯƠNG PHƯƠNG
NAM: