Nhà văn Bình Nguyên Lộc
Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ra ở Tân
Uyên, Bình Dương, học ở Sài Gòn, năm 1935, chưa xong trung học, về làm công chức
kho bạc Thủ Dầu Một, rồi làm kế toán Tổng nha ngân khố Sài Gòn, năm 1945 tham
gia kháng chiến, sau đó hồi cư về Lái Thiêu rồi về Sài Gòn viết văn, làm báo. Từ
năm 1942, cộng tác với tờ Thanh Niên của Huỳnh Tấn Phát, một tờ
báo cổ vũ cho phong trào cách mạng trong thanh niên thời bấy giờ, nhưng phải đến
năm 1946, khi định cư ở Sài Gòn, ông mới thật sự định vị với nghề văn, nghề báo
và đứng ra thành lập tuần báo Vui Sống và nhà xuất bản Bến
Nghé. Số lượng tác phẩm của ông rất đồ sộ, nhưng đã bị thất lạc hoặc chỉ in rải
rác trên các báo, chưa có điều kiện sưu tập lại, những tác phẩm được in thành
sách chưa được một phần ba, mà đã có 7 công trình sưu tầm chú giải, 1 công
trình nghiên cứu dân tộc học, 1 công trình nghiên cứu ngôn ngữ học, 2 tập thơ,
1 tiểu thuyết bằng thơ, 30 tập văn xuôi gồm tuỳ bút, truyện ngắn, truyện dài,
tiểu thuyết... Ngay cả những tác phẩm đã in thành sách, cũng khó mà thống kê một
cách đầy đủ.
Sinh ra trong một gia đình đã có mười đời sống ở Tân
Uyên, nhưng trong ý thức văn hoá của Bình Nguyên Lộc luôn hướng về nguồn cội,
luôn truy nguyên tìm kiếm nguồn gốc tổ tiên từ đất Bắc di dân vào Nam. Trong
các công trình nghiên cứu như Nguồn gốc Mã Lai Á của dân tộc
Việt Nam (1971), Lột trần Việt ngữ (1971) cũng như những
tập bút ký đầu tay như Hương gió Đồng Nai (viết từ 1935 đến
1942, một vài đoạn đã in báo năm 1943, bản thảo mất khi Pháp chiếm Tân Uyên năm
1945), Phù sa (viết năm 1942, in 1/6 trên báo Thanh
Niên năm 1943 với tiêu đề Di dân lập ấp), ông đều tập
trung lần tìm lại “từ thuở mang gươm đi mở cõi / nghìn năm thương nhớ đất Thăng
Long” (Huỳnh Văn Nghệ). Nếu nhìn một cách khái quát, cảm hứng chủ đạo làm nên
thế giới văn chương của ông xuất phát từ những vấn đề cốt tử của truyền thống
văn hoá Việt: nguồn gốc, ngôn ngữ, di dân, cõi âm - bốn yếu tố đặc
sánh tâm hồn Bình Nguyên Lộc. Ngay trong phạm vi một tác phẩm như tập truyện ngắn Ký
thác (1960), những vấn đề trên cũng lần lượt hiện ra thông qua đề tài,
tư tưởng - chủ đề và thế giới hình tượng của tác phẩm: Ăn cơm
chưa, Pì Pế Hán (nguồn gốc), Lầu ba phòng bảy, Đôi bạn mắc hoa
vông (ngôn ngữ), Rừng mắm, Rung cây dừa (di
dân), Ba con cáo, Ba ngôi sao giữa trời, Hồn ma cũ (cõi
âm)...
Sáng tác trong thời kỳ có sự gắn bó mật thiết giữa văn
chương và báo chí, nên tiểu thuyết của ông hầu hết là tiểu thuyết feuilleton
(tiểu thuyết dài kỳ in báo, tiểu thuyết tân văn), một loại tiểu thuyết ra đời
trong cơn lốc của báo in ở các nước phương Tây và đã từng tạo nên các tên tuổi
lừng lẫy như C. Dickens, W. Thackeray, A. Dumas và cả Kim Dung nữa. Lối
viết của Bình Nguyên Lộc gần giống với tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết luận đề
của Tự lực văn đoàn, từ kết cấu, tâm lý nhân vật đến giọng điệu trần thuật,
miêu tả và nhân vật. Đò dọc (1959), Hoa hậu Bồ Đào (1963), Ái
ân thâu ngắn cho dài tiếc thương (1963)... là những tiểu thuyết tâm lý
thành công của ông, nhất là với Đò dọc, ông đã được Giải thưởng văn
chương toàn quốc (Sài Gòn) năm 1960, in dấu một phong cách tiểu thuyết đặc sắc.
Cuốn tiểu thuyết nói về cuộc sống di dân ngược xuôi như những chuyến đò dọc của
gia đình ông bà Nam Thành cùng bốn cô con gái, từ Bạc Liêu thuộc miền Tây Nam Bộ
lên Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn trôi dạt về miệt Thủ Đức thuộc miền Đông. Đó là lộ
trình của người thị dân, người dân kẻ chợ về vườn, sống lạc lõng, cô đơn ở vùng
nửa quê nửa tỉnh, ngược lại so với lộ trình của cô Hiếu (trong Hoa hậu
Bồ Đào), một người con gái quê có nhan sắc lên thành phố, phải chống chọi với
bao nhiêu cạm bẫy, cám dỗ của lối sống thị thành. Bốn cô con gái Hương, Hồng,
Hoa, Quá không chỉ cô đơn mà còn cô độc, họ cấu xé nhau bởi sự xuất hiện của một
chàng hoạ sĩ. Tiểu thuyết này cũng chưa thoát khỏi truyền thống kết thúc có hậu,
trừ cô Hương chị cả yên phận gái già, còn ba cô em đều đã lấy được chồng. Nhưng
điều người đọc nhận ra qua bút pháp phân tích tâm lý của tác giả là nỗi cô đơn
của phận người, những đố kỵ, ghen tỵ trong cuộc sống gia đình, cuộc sống lạc
lõng của người dân ngụ cư. Cuốn tiểu thuyết ra đời sau thời điểm có cuộc di cư
của một bộ phận nhân dân từ Bắc vào sau năm 1954, phải đối mặt với không ít những
kỳ thị và khác biệt trong đời sống cộng đồng. Nhìn chung, là tiểu thuyết
feuilleton, luôn phải phụ thuộc vào số trang, số chữ của từng kỳ ra báo, thậm
chí phụ thuộc cả vào việc coi văn chương chỉ là phương tiện kiếm sống của người
làm báo (có ngày ông phải viết đến 11 đoạn truyện khác nhau cho 11 tờ báo, viết
mà không có thời gian đọc lại), nên không tránh khỏi sự trùng lặp, cố ý rút ngắn
hoặc kéo dài, ảnh hưởng đến chất lượng nghệ thuật.
Đặc sắc văn xuôi Bình Nguyên Lộc là ở truyện ngắn và tuỳ bút,
cả những cái đã in thành sách và những cái chỉ mới in trên các báo, con số có
thể lên đến vài nghìn tác phẩm, nhưng trong đó chỉ có khoảng hơn năm mươi tác
phẩm thật hay, nằm rải rác trong các tập như Nhốt gió (1950), Ký
thác (1960), Những bước lang thang trên hè phố của
gã Bình Nguyên Lộc (1966), Tình đất (1966), Thầm
lặng (1967), Cuống rún chưa lìa (1969)... Một thằng
bé con có khát vọng “nhốt gió” lại, để gió đừng bay đi và cuối cùng đành phải
thoả hiệp đùa chơi với gió. Chưa nói đến ý nghĩa khách quan toát ra từ hình tượng,
chỉ cần nghĩ ra được hình tượng đã lạ, đã hết sức tân kỳ. Ký thác được
nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh tái bản lần gần đây nhất năm 2001,
gồm 16 truyện, trong đó có những truyện ngắn hay như Rừng mắm, Ba con
cáo, Đôi bạn mắc hoa vông... tiêu biểu cho nghệ thuật truyện ngắn của Bình
Nguyên Lộc. Thằng Cộc theo ông và cha mẹ đến rừng nước mặn mà gia đình nó đặt
tên là Ô Heo, chiến đấu với thiên nhiên, lấn biển để giành đất sống, gợi nhớ đến
cuộc chiến đấu đơn độc giữa ngư ông và biển cả. Ba đời nhà thằng Cộc tượng
trưng cho cuộc di dân của người Việt từ Bắc xuống Nam từ thuở xa xưa trong trạng
thái “thềm người” đến cháy bỏng. Nếu ở Rừng mắm, ông đem đối sánh bản
chất người của con người với thiên nhiên, với đất và nước, thì ở Ba con
cáo ông phân biệt với bản năng động vật, là cuộc tranh giành sự sống
giữa người và vật, trong vật vã đói khát giữa một bãi tha ma, cuối cùng con người
cũng chiến thắng vế vật chất, nhưng lại trĩu nặng những di chứng tinh thần: “Hồ
ly rùng mình một cái, không phải vì lạnh, cũng không phải vì sợ ma, mà vì chị bỗng
sợ hãi chính mình, sợ hãi con người đã vơi cạn hết chất người.” Cuống
rún chưa lìa là sự tiếp tục Ký thác, lần tái bản gần đây
nhất tại California năm 1987, trước khi tác giả mất ít lâu, được gộp chung cả tập Tình
đất vào thành 12 truyện và bài thơ Dâng má thương, thể hiện
tấm lòng của ông hướng về thổ ngơi, về đất nước như cuống rún chưa lìa lòng mẹ.
Nếu tiểu thuyết Đò dọc bóc trần tâm trạng của những người di
cư, một trong những phương thức di dân, thì Cuống rún chưa
lìalại hướng về cõi âm, là lương tâm của người Việt hướng về hương hồn của
những tộc người xa xưa đã phải “điêu tàn”. Những truyện hay trong tập như Bà
Mọi hú, Câu dầm, Bám níu, Phân nửa con người, Mấy vụ quật mồ bí mật...
từ không khí liêu trai, thoát thai từ đất, đá, nước, cây thành sự sống con người.
Một bà Mọi xuất thân từ miền sơn cước, quyết giữ đất, chống lại những người di
dân. Một ông già câu cá đã từng xuống cõi âm trở về, không dám câu cá ở sông nữa,
mà chỉ câu trộm cá ở ruộng trong mưa dầm gió bấc. Qua trang văn, đất như cỗi rẽ
để con người bám vào, còn nước nuôi người sinh sản, lớn khôn.
Với Những bước chân lang thang trên hè phố của gã
Bình Nguyên Lộc, ông truy tìm nguồn gốc, dĩ vãng của Sài Gòn, một
thành phố mới, còn ít tuổi, chưa kịp có dĩ vãng rêu phong. “Sài Gòn không có được
một quá khứ lịch sử vang dội như Thăng Long, đài các như Huế, cho nên Bình
Nguyên Lộc đã tạo cho Sài Gòn một đời sống trực tiếp, dân dã, dính liền với cõi
âm, một cách nối dài lịch sử Sài Gòn với quá khứ bình dân của những người chết
không tên tuổi” (T. Khuê, Tự điển văn học, bộ mới, Nxb thế giới,
2005, tr. 133), khi tình cờ lang thang trên đường phố, tác giả phát hiện ra Sài
Gòn được “xây dựng trên một bãi tha ma minh mông”, cảm thấy được cái “thổ ngơi
thơm phức hồn ma cũ”. Cùng lần lại lối xưa người cũ, nhưng Sài Gòn năm
xưa (1962) và Sài Gòn tạp pín lù (1992) của
Vương Hồng Sển mang đậm chất hồi ức kỷ niệm, Gia Định xưa (1984)
và Người Sài Gòn (1994) của Sơn Nam mang đậm chất khảo cứu, còn
những “trang viết lang thang” của ông là những tuỳ bút vừa phóng túng tài hoa,
vừa phong trần nghệ sĩ. Cuộc truy nguyên nguồn cội của ông không chỉ bó gọn
trong phạm vi Sài Gòn mà còn mở rộng ra phạm vi cả nước, cả dân tộc, không chỉ
bằng tư duy hình tượng mà còn cả tư duy khoa học chặt chẽ, logic như ở các công
trình Nguồn gốc Mã Lai Á của dân tộc Việt Nam và Lột
trần Việt ngữ... những cuốn sách mà cho đến nay, ai nghiên cứu về các vấn đề
trên đều phải lật lại để tra cứu.
Khác với các tác giả sinh ra từ đất Bắc, nhưng toàn bộ
hành trạng cuộc đời và văn nghiệp đều gắn liền với phương Nam như Lê Văn
Trương, Nguyễn Hiến Lê, nhưng đồng thời cũng khác với các nhà văn sinh ra ở Nam
Bộ nhưng hoàn toàn viết theo lối Bắc như Đông Hồ và cũng không giữ nguyên đậm đặc
chất liệu Nam Bộ như Hồ Biểu Chánh, văn chương Bình Nguyên Lộc thể hiện sự giao
lưu văn hoá, đứng ở miền giao thoa văn hoá Bắc – Nam từ trong tâm thức, cách
nhìn và nhất là giọng điệu văn chương. Khi sử dụng một từ ngữ có tính chất đặc
thù của phương ngữ miền Nam, ông thường tìm cách giải thích, truy nguyên nguồn
gốc của nó ở ngoài Bắc thế nào, có khi còn phê bình là nơi nào dùng chính xác,
hợp lý hơn, không chỉ trong văn phong khoa học, trong giọng điệu trần thuật hay
miêu tả, mà còn thông qua ngôn ngữ nhân vật: “Con chàng hiu má à! Người Bắc thì
kêu nó là con chẫu chuộc nghe ít ghê hơn tên của ta. Tiếng chàng hiu gợi hình
dáng một con người mà là người ma, ghê quá.” (Đò dọc).
Nói nhà văn là nhà nghệ thuật ngôn từ đối với Bình Nguyên
Lộc còn chưa đủ, mà phải nói ông là nhà ảo thuật về ngôn từ, khi ông luôn có lối
so sánh với những hình dung từ chính xác, đắc địa, hiện đại và tài hoa: “Là con
trai tôi không khóc được. Nhưng lòng tôi đã tơi bời như áo mục phơi dưới gió
to” (Ăn cơm chưa); hoặc “Vịnh Thái Lan, phần thuộc hải phận Việt Nam,
chi chít những đảo là đảo, như có đứa trẻ tinh nghịch nào hốt đá cuội mà vứt rải
trên một cái ao con” (Rung cây dừa); hoặc đoạn mở đầu truyện ngắn Rừng
mắm, ông tả tâm trạng thằng Cộc dõi theo con chim bói cá: “Chim đang bay lượn
bỗng đứng khựng lại, khiến thằng Cộc thích chí hết sức. Nó theo dõi con chim thầy
bói ấy từ nãy đến giờ, chờ đợi cái phút này đây. Thật là huyền diệu, sự đứng
yên được một chỗ trên không trung, trông như là chim ai treo phơi khô ngoài sân
nhà. Chim thầy bói nghiên đầu dòm xuống mặt rạch giây lát rồi như bị đứt dây
treo, nó rơi xuống nước mau lẹ như một hòn đá nặng. Vừa đụng nước nó lại bị bắn
tung trở lên như một cục cao su bị tưng, mỏ ngậm một con cá nhỏ”. Sức nặng
trang văn của ông không chỉ ở vốn tri thức về văn hoá, mà còn ở sự kết hợp hài
hoà giữa giọng kể và giọng tả, vừa thể hiện sự bộc trực của miệt quê nơi ông
sáng tác, vừa phóng túng, mượt mà của một ngôn ngữ chuẩn mực phổ thông.
Một sự trùng hợp ngẫu nhiên như định mệnh là ông sinh năm
1914 và mất năm 1987 đều cùng ngày, cùng tháng, đó là ngày Bảy tháng Ba. Vậy
là, tròn 73 năm ông sống và lao động miệt mài, trong đó có những năm sung sức,
ngoài việc hàng ngày ông phải nộp hàng chục bài cho các báo, ông in hàng chục tập
sách gồm nhiều thể loại trong cùng một năm: Nhện chờ mối ai, Xô ngã bức
tường rêu, Bí mật của nàng, Ái ân thâu ngắn cho dài tiếc thương, Bóng ai ngoài
song cửa, Hoa hậu Bồ Đào, Mối tình cuối cùng, Nửa đêm trăng sụp,
Tâm trạng hồng,... gộp lại có đến mấy nghìn trang sách đều được in ra trong
năm 1963! Lần lại sự nghiệp văn chương đồ sộ của ông, mà trong đó ngồn ngộn những
tri thức văn hoá lịch sử, người đọc ngày nay không chỉ thấy được sức lao động cật
lực của một nhà văn, một nhà văn hoá bậc thầy, mà còn có thể hình dung ra được cuộc
sống của những người theo nghề văn, nghiệp báo ở miền Nam trước đây.
PHẠM PHÚ PHONG
Nguồn: SÔNG HƯƠNG
223
ĐỌC THÊM VĂN CHƯƠNG PHƯƠNG
NAM: