Nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn đã từng nói về nhà thơ Nguyễn Duy: "Hình hài Nguyễn Duy như đám đất
hoang, còn thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý mọc lên trên đám đất hoang đó".
Nhà thơ Nguyễn Duy
Nhà thơ Nguyễn
Duy hẹn gặp tôi tại tư gia của anh ở đường Lê Văn Sỹ (Thành phố Hồ Chí Minh). Lâu lâu rồi không gặp nhau, dù chúng tôi cùng học
khoa văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Tôi học trước Nguyễn Duy một năm và
tôi cũng rất thích thơ Nguyễn Duy ngay từ khi anh còn học đại học.
Nguyễn Duy dẫn
tôi lên tầng trên cùng của ngôi nhà nhiều tầng mà theo anh nói là do làm lịch
thơ mà xây được. Mảnh sân thượng của ngôi nhà trở thành vườn thơ, nơi anh trồng
cây cảnh, có bàn trà đãi khách, trà ướp hoa nhài thơm, bạn thơ gặp nhau và câu chuyện cũng xoay quanh chuyện
văn chương, quanh những bài thơ của anh, những bài thơ được nhiều người yêu
thích, trong đó có tôi.
Tôi hỏi, có phải
người bà đã có ảnh hưởng rất
nhiều trong cuộc đời thơ của anh không? Nguyễn Duy nói đúng vậy. Anh nói bà đã
dạy anh nhiều điều, mà điều quan trọng nhất là đạo lý làm người "Ở hiền gặp lành". Tôi đọc những câu
thơ mà tôi đã thuộc lòng trong bài thơ của Nguyễn Duy viết về bà: "Tôi
đâu biết bà tôi cơ cực thế/ Bà mò
cua xúc tép ở Đồng Quan/ Bà đi gánh chè xanh Ba Trại/ Quán Cháo, Đồng Giao, thập
thững những đêm hàn……/ Khi tôi biết thương bà thì đã muộn/ Bà chỉ còn là
một nắm cỏ thôi…".
Nhà thơ Nguyễn Duy kể về những ngày thơ bé, những
ngày "Níu váy bà đi chợ Bình Lâm…".
"Bà tôi là người không biết chữ, một chữ bẻ đôi cũng không biết, nhưng bà lại thuộc rất
nhiều ca dao, truyện tiếu lâm, cổ tích, bà đọc thuộc lòng những đoạn rất
dài trong Truyện Kiều. Nhà thơ Nguyễn
Duy kể: Bà đem ca dao, tục ngữ, thành ngữ ra dạy các con, các cháu. Tôi cò#n
nhớ như in những đêm trăng, mẹ tôi
trải chiếu ra bên bờ sông Mã, chúng tôi quây quần ngồi nghe bà kể chuyện.
Bà kể chuyện con chim sẻ đi lạc bầy, bị chết thảm, chuyện Thạch Sanh chém trăn
tinh…
Ông ngoại tôi họ Đoàn, quê ở Nam Định, vào làm thợ mộc ở
Thanh Hóa rồi kết hôn với bà tôi. Tên bà là Mai Thị Đào. Bà sinh được duy nhất
một người con là mẹ tôi, Đoàn Thị Quang. Mẹ tôi nhuộm răng đen, váy thùng, thường nằm trên võng cói ru tôi. Mẹ
tôi mất sớm do uống nhầm thuốc, hai anh em chúng tôi đều do bà nuôi nấng, dạy dỗ.
Tôi thường lấy hình ảnh bà lắp
vào mẹ tôi. Bà tôi sùng đạo Phật, luôn dạy con, cháu phải sống lương thiện, làm
việc thiện, sống có nhân lành mới có quả tốt, luôn nhắc nhở các cháu cái đạo lý
"ở hiền gặp lành"…
Bà thường gánh
chè xanh đi bán, bà đi bộ 14 cây số để mua chè, chè xanh bà nấu thơm ngon nổi
tiếng. Bà đi chân đất, dắt tôi đi theo ra tận đền Sòng, đền cô Bơ, đền
Cây Thị …
Cha tôi làm men, nấu rượu, nổi tiếng ở phố Lèn. Ông tên là Nguyễn Duy Di, mà người ta thương gọi
là "Di Men" vì men rượu ông làm nổi tiếng. Một thời, cha tôi trở nên khá giả, làm được nhà ngói
năm gian, có sân gạch, có của ăn của để. Sau khi mẹ tôi mất, cha tôi lấy vợ kế,
hai anh em chúng tôi ở với bà ngoại.
Khi tôi lập
gia đình, có con, tôi thường
kể những câu chuyện về bà, về mẹ cho các con
tôi nghe và luôn dạy con đạo lý mà bà tôi đã dạy anh em chúng tôi
"Ở hiền gặp lành …".
Nhà thơ Nguyễn
Duy có hai người con là Nguyễn Duy Bùi sinh năm 1973 và Nguyễn Duy Sơn sinh năm
1976. Mặc dầu ông nói mình dạy con không thành công, nhưng tôi biết chính con trai ông - Nguyễn Duy Sơn,
họa sỹ đồ họa - đã cùng ông thiết kế, trình bày lịch thơ và tập thơ thiền Lý - Trần nổi tiếng.
Trầm ngâm một lúc, nhà thơ Nguyễn Duy bảo tôi: "Thế mà trong đời tôi cũng như bà tôi nhiều lần
gặp chuyện chẳng lành đâu. Một lần cơ ngơi làm ăn, nhà cửa của ông bà tôi bị hỏa
hoạn, cháy sạch …. Còn tôi từ cái lần bài thơ "Thơ tặng người ăn mày" (1973), tôi đọc
cho sinh viên nghe ở hai trường đại học, đang đọc thì điện chập, một căn
phòng bốc cháy…
Khi chữa cháy xong tôi lại leo lên bục đọc tiếp. Sau lần
đó tôi bị quy cho đủ thứ tội. Cũng năm 1973 tôi làm bài thơ "Lời ru trong bão", lấy cảm hứng
từ cuộc đời của mình, của gia đình mình, muốn các con cũng sống cuộc đời đạm bạc
như mình, sống với đạo lý ở hiền gặp lành. Nhưng có vẻ các con tôi không thích con đường ấy, ít tiền, khổ hạnh. Vợ tôi
làm việc ở Thư viện Thanh Hóa, năm 1976 chuyển vào Nam và xin về hưu. Vợ tôi phải
mổ tim, mổ cột sống, nhồi máu não, phải ngồi xe lăn …".
Tôi nhớ những năm sau chiến tranh (1975) , những bài thơ
của Nguyễn Duy được ngâm ngợi rất nhiều. Như bài thơ "Tre Việt Nam":
"Thân gầy guộc, lá mong manh/ mà sao nên lũy, nên thành tre ơi/ Ở đâu
tre cũng xanh tươi/ cho dù đất sỏi, đất vôi bạc màu/ Có gì đâu, có gì đâu/ mỡ
màu ít, chắt dồn lâu hóa nhiều/ Rễ siêng không ngại đất nghèo/ tre bao nhiêu rễ,
bấy nhiêu cần cù …". Hay như bài "Hơi ấm ổ rơm": "Rơm
vàng bọc tôi như kén bọc tằm/ tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng/
trong hơi ấm gấp ngàn lần chăn đệm/ của những cọng rơm xơ xác, gầy gò…".
Khi tôi hỏi Nguyễn Duy có phải người ta đã lập miếu thờ một
bài thơ của anh viết về chiến tranh hay không? Nhà thơ Nguyễn Duy nói: "Phải
đấy, đó là bài "Đá ơi". Anh cho biết số phận bài thơ ấy truân chuyên
lắm. Bài thơ nổi tiếng được dịch ra nhiều thứ tiếng, in ở Mỹ, ở Pháp… Rồi được
khắc lên một phiến đá. Một nhà văn ở Thanh Hóa quê anh mang phiến đá có khắc
bài thơ ấy về, lập một cái miếu trong vườn để thờ…
Nguyễn Duy vào căn phòng trên cùng của khu nhà, chất đầy
sách, có lẽ đó là thư viện của anh. Anh mang ra tặng tôi cuốn sách mới xuất bản,
in rất đẹp, cuốn tuyển tập thơ chữ Hán "Về Côn Sơn" của Nguyễn Trãi.
Nguyễn Duy nắn nót ghi "Thân tặng bạn thơ Dương Kỳ
Anh".
Đó là tuyển tập thơ in bằng tiếng Việt và tiếng Anh do
nhà thơ Nguyễn Duy chủ biên, chụp ảnh minh họa và dịch các bài thơ bằng chữ Hán
của Nguyễn Trãi thành những bài lục bát mà tôi rất thích, như bài "Chiều
Tĩnh Yên": "Chiều tà, khói nhạt, mưa thưa/ Sắc mầu như có, lại vừa
như không/ Đất trời muôn thủa tươi trong/ Vì ta mà nước non lồng nên
tranh".
Tài thơ lục bát của Nguyễn Duy thì nhiều người đã nói, đã
viết. Tài dịch thơ chữ Hán thành thơ lục bát của anh cũng rất siêu. "…Trời
xanh như nước lặng thinh/ Lạnh nghe tiếng hạc vô tình vút cao". (Nguyễn
Trãi - Đề bức tranh Bá Nha đánh đàn); "…Ăn toàn rau, ngủ thiếu chăn/ Mười
năm đọc sách, nghèo cằn tận xương" (Nguyễn Trãi - Gửi Bạn); "Đời
như một giấc mơ hoang/ Tỉnh ra mọi sự chỉ toàn ảo thôi" (Nguyễn Trãi -
Chợt hứng làm thơ). Nguyễn Duy cho rằng đang có một lỗ hổng rất lớn trong xã hội,
lỗ hổng về quan hệ xã hội, quan hệ gia đình, quan hệ anh em, quan hệ bạn bè
không được như những gì mà mình mong muốn.
Sống ở đời, cái hay, cái dở là vô cùng. Điều quan trọng
là tấm lòng. Từ chuyện lớn, chuyện nhỏ, đến tâm tính thời đại đều phải chân thực,
đó là đạo lý; mà ngày nay hình như người ta không cần đạo lý! Anh sợ lỗ hổng
này giống như ổ mối, nếu không chữa trị kịp thời sẽ làm hỏng thân đê - đạo lý.
Nhà thơ Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm
1947 tại Thanh Hóa. Năm 1966, anh nhập ngũ, là lính đường dây của Bộ Tư lệnh
thông tin. Nguyễn Duy tham gia chiến dịch Khe Sanh, đường 9 Nam Lào, thành cổ
Quảng Trị. Sau ngày nước nhà thống nhất, anh chuyển về làm ở Báo Văn Nghệ, là
trưởng đại diện của tuần báo cho tới ngày anh nghỉ hưu.
Nguyễn Duy làm thơ rất sớm, từ ngày anh còn học phổ thông
ở trường Lam Sơn (Thanh Hóa). Năm 1973, Nguyễn Duy đoạt giải nhất cuộc thi thơ
của tuần Báo Văn Nghệ. Nguyễn Duy còn viết tiểu thuyết, bút ký. Anh thành công
nhất là ở thể thơ lục bát. Những bài thơ lục bát của Nguyễn Duy (có bài đã được
đưa vào sách giáo khoa) vừa dân dã, truyền thống, lại vừa mới mẻ, hiện đại từ
hình tượng thơ đến cách nghĩ, cách cảm, đến cách gieo vần và nhạc điệu trong
thơ. Nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đã từng nói về nhà thơ Nguyễn Duy: "Hình hài
Nguyễn Duy như đám đất hoang, còn thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý mọc lên trên
đám đất hoang đó".
Năm 1997, Nguyễn Duy tuyên bố "gác bút", nhưng
thơ ca với anh như một duyên nợ. Nguyễn Duy bắt đầu in lịch thơ, triển lãm thơ
trên tranh, tre, nứa, lá…, thậm chí trên cả bao tải.
Năm 2005, Nguyễn Duy cho ra mắt cuốn thơ Thiền trên giấy
dó (30 bài thơ Ly - Trần khổ 81 x 111cm có bản tiếng Hán, dịch nghĩa thơ ra tiếng
Việt và tiếng Anh với nhiều ảnh minh họa đẹp của chính Nguyễn Duy).
Năm 2007, Nguyễn Duy được tặng Giải thưởng Nhà nước về
văn học nghệ thuật. Năm 2010, Nguyễn Duy được giải thưởng lớn về thơ của Viện
Hàn lâm Rumani.
Sau bao thăng trầm, thi sỹ Nguyễn Duy vẫn trước sau với hồn
quê, trước sau với những triết lý thâm trầm, như câu thơ anh viết "Thời gian đi, xám mặt đỉnh đồng".
DƯƠNG KỲ ANH
Nguồn: VNCA
ĐỌC THÊM VĂN CHƯƠNG PHƯƠNG NAM: