Nhà thơ Thanh Tâm
Tuyền
Thanh Tâm Tuyền
nói riêng và người làm thơ sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện hành động. Thi
ca nó không là sự thất vọng, sự bất lực cũng không phải việc làm những bài thơ
là đạt được hành động lý tưởng. Thi ca chính nó là một hành vi thật tuyệt đối
trong ý nghĩa của đời sống của con người…
Nếu phải kiểm
điểm và nhìn lại sự phát triển của thơ trong chu kỳ mười năm gần đây, thì nhà thơ mà người ta nhắc đến trong hàng đầu có lẽ phải
là Thanh Tâm Tuyền. Nói như thế thật không có nghĩa ấn định thứ tự lớn bé giữa
các nhà thơ hiện thời (vì không ai muốn dành quyền nói thế) mà chỉ vì ít
nhất Thanh Tâm Tuyền là một trong những người vác biểu ngữ đi hàng đầu trong cuộc biểu tình cho thơ tự do. Người mang biểu ngữ đi đầu có thể
là hay không là người làm nên cuộc biểu tình (cuộc biểu tình không thể
chỉ có một người) nhưng giá trị thứ
nhất và tối thiểu phải nằm trong giá trị biểu kiến của một kẻ đi đầu, bởi vì
người ấy là người thứ nhất chịu phản
ứng của địch thủ, là người thứ nhất nắm lấy cơ hội đã chín để đi hàng đầu,
cho nên khi tuyên dương công trạng
thì người đi hàng đầu phải là
người được tuyên dương đầu tiên. Thơ tự do – thơ ca bây giờ mang tên ấy – phải
ghi công Thanh tâm Tuyền, và chúng tôi, trong loạt bài nói về thơ hiện thời sẽ
nói đến Thanh Tâm Tuyền như một chiến sĩ tiền phong trong chu trình biến
chuyển của thi ca Việt-nam, nói rộng hơn của nền văn học Việt-Nam mà biến chuyển đó cũng là một biến chuyển phụ
thuộc của sự biến chuyển rộng rãi hơn là của toàn thể xã hội Việt-nam.
Nhìn vào “đất đai” của Thanh Tâm Tuyền chúng tôi phải nhớ
hàng chữ mà ông chi ghi lên hàng đầu tập Tôi không còn cô độc là tập thơ đầu tiên, là tiếng nói đầu tiên mà Thanh
Tâm Tuyền nói với xã hội thi ca chúng ta bấy giờ.
Ở đây tôi là vị
hoàng đế đầy đủ quyền uy. Bởi vì người vào trong đất đai của tôi.
Người hoàn toàn tự do, để cai trị tôi có những luật
lệ tinh thần mà người phải thần phục nếu người muốn nhận lãnh thổ.
Người
hoàn toàn tự do và có thể ném cuốn sách ra cửa sổ.
Đó là một lá
chắn Thanh Tâm Tuyền dựng lên để phòng vệ các phản ứng. Sự dự đoán ấy
đúng là Phục sinh (bài thơ ngay ở những
trang đầu) là đối tượng của sự phản ứng. Nhưng chúng tôi nhắc tới Phục sinh
không phải là để nhắc tới các phản ứng đối với Thanh Tâm Tuyền hồi ấy, vì
trong sự biến chuyển toàn thể của dòng thi ca điều đó không đáng kể, mà chỉ
nhân dịp và nghĩ rằng có thể Phục Sinh đã một phần đại diện cho nếp cảm nghĩ,
cách biểu hiện của Thanh Tâm Tuyền.
Chúng tôi nghĩ khối suy tư và tình cảm trong con người đến một mức độ nào đó thì không
lên cao nữa và tỏa ngang. Ví dụ như
Nguyễn Công Trứ:
Ngồi buồn mà trách ông xanh
khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười
kiếp sau xin chớ làm người
làm cây thông đứng giữa trời mà reo
giữa trời vách đá cheo leo
ai mà chịu rét thì trèo với thông…
hay Tản-Đà:
cái hạc bay lên vút tận trời
trời đất từ nay xa cách mãi
ngàn năm thơ thẩn bóng trăng
chơi
Là một thứ tình cảm vượt lên trên tình cảm vui hay buồn,
sung sướng hay khổ sở, những tình cảm giận hờn thương xót của cái vòng lẩn quẩn
hàng ngày trong các giác quan. Một kẻ có lẽ cảm thấy một điều vui, trong việc
“có lẽ vui” và “hình như vui” nó phát sinh ra một thứ tình cảm ngược lại, hay
cũng có thể sự vui vẻ quá độ đẩy con người ta tới một tình cảm ngược lại: khóc,
bởi vì qua đơn vui say tỉnh lại là nỗi buồn, nỗi buồn ấy thật trong nước mắt.
Đối với Thanh Tâm Tuyền:
Tôi
buồn khóc như buồn nôn
ngoài phố
nắng thủy tinh
tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
Thanh Tâm Tuyền
Tình cảm ấy cũng thế, sinh hoạt cuộc đời và con người nó
đã xẩy ra như thế, và như thế chán lắm, buồn nôn lắm, tôi cảm thấy như thế ghê
tởm, điều ấy cũng giống như tôi cảm thấy cùng một lúc sự thương xót nào đó ẩn
náu trong góc linh hồn, góc phố, góc cột đèn, góc giáo đường, sự thương sót giống
như của một đứa nhỏ vừa đi lủi thủi vừa khóc tấm tức, vì giận hờn, vì sót sa,
vì tủi thân:
Tôi
gọi tên tôi cho đỡ nhớ
Thanh Tâm Tuyền.
Thanh Tâm Tuyền lúc ấy đối với Thanh Tâm Tuyền làm thi sĩ
đi trên hè phố chỉ là một đứa nhỏ tội nghiệp, đứa nhỏ ấy có thể là cái côté
faible của con người – con người nào mà không có côté faibale - , một mặc cảm,
một sự thất vọng, một sự tổn thương, một sự chán chường… đứa nhỏ ấy đi theo một
Thanh Tâm Tuyền, một thanh niên nào đó trên hè phố với “buổi chiều sao vỡ
vào chuông giáo đường”. Đứa nhỏ ấy thật khổ sở và một Thanh Tâm Tuyền
đi-trên-phố muốn xin cho nó một chỗ quỳ để tuôn ra ngoài nỗi sót thương, một chỗ
thật thầm kín và lặng lẽ, vì đứa nhỏ ấy muốn yên nghỉ muốn xa lánh và trốn
tránh sự giáp mặt với những buồn nôn của cuộc đời.
Buổi
chiều sao vỡ vào chuông giáo đường
Tôi xin một chỗ quỳ thầm kín
Cho đứa nhỏ linh hồn
Cho chó dữ
Con chó đói không mầu.
Sự tìm chỗ an nghỉ cho đứa nhỏ linh hồn ở trong một góc
khiêm nhường của giáo đường cũng giống như sự đi tìm một chỗ yên nghỉ trong giấc
ngủ vùi, hay trong chỗ ẩn náu sau cùng lý tưởng và tốt đẹp nhất của con người
là cái chết. Ôi, ai đã nghĩ đến cái chết như một chỗ ẩn thân một sự trở về quê
hương hay một ân sủng duy nhất của con người. Sự bí ẩn của cái chết kết thúc tất
cả, kết thúc sự buồn tênh lại cười hay khi vui muốn khóc. Cái chết phải có để
cho nước mắt và tiếng cười được một chỗ quỳ thầm kín trên thời gian vô tận. Tôi
thèm chết như thèm một giấc ngủ, tuy đang đi trên bờ sông của thành phố đang sống,
lúc ấy tôi muốn gọi tên tôi thật to, muốn hét lên, muốn nổi giận, vì đứa nhỏ.
Thanh Tâm Tuyền lúc này đã ở trong một chỗ quỳ và còn lại một Thanh Tâm Tuyền
khác của đời sống buồn khóc và buồn nôn. Vì buồn khóc buồn nôn buồn chết và buồn
ngủ nên có cái gì chưa xong, một cái gì chưa thành hình như giống hệt một cái
khó chịu phiền muộn muốn gắt gỏng và nguyền rủa cho nguôi cơn giận giữ.
Tôi
hét tên tôi cho nguôi giận
Thanh Tâm Tuyền
Đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi
em bé quàng khăn đỏ ơi
này một con chó sói
thứ chó sói lang thang.
Đứa nhỏ linh hồn sợ chó dữ, và em bé quàng khăn đỏ sợ con
chó sói xảo quyệt. Con chó đói không màu hay con chó sói lang thang ấy là mối
quan tâm hay sự ưu phiền của con người trước đời sống tổng quát. Nói rộng là mối
ám ảnh về số phận làm người mà mỗi người đều mang, cái guồng máy vô hình của thời
gian cuốn hút và xô đẩy con người vào hủy diệt không cưỡng lại nổi. Cũng có thể
đó là thứ gai sạn trong đời sống hàng ngày, sự quỷ quyệt, lươn lẹo, sự lừa gạt,
lợi dụng, hay sự cực nhọc của cuộc sinh tồn vân vân… Những thứ đó là một thứ
chó dữ không mầu luôn luôn rập rình nhe nanh vuốt và bất cứ lúc nào nhẩy xổ tới
tấn công cô bé quàng khăn đỏ và đứa nhỏ linh hồn. Có phải thế không, hiện diện
giữa đời sống con người ta lúc nào đấy, lúc mà tình cảm lên cao và kết đúc lại
trong một trạng thái sinh hoạt se sắt, chỉ là một đứa nhỏ sợ sệt muốn tìm một
chỗ ẩn náu yên thân trước những sự đòi hỏi và bao vây của số kiếp làm người? Chỗ
trú chân ấy ở đâu và là gì, có thể trong một giáo đường, nhưng sự thực có thể
là một miền hoa cỏ suối ngọt của tình yêu.
Tôi
thèm sống như thèm chết
giữa hơi thở giao thoa
ngực cháy lửa
tôi gọi khẽ
em
hãy mở cửa trái tim
tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ
trong sạch như một lần sự thật.
Có phải thế không, hỡi những người yêu, những kẻ tình
nhân của cuộc đời, có một lần nào với nỗi buồn và sự cô đơn đi trong hè phố, có
một lần nào với sự mệt nhọc và sự chán chường trên các cột đèn và xe cộ buổi
chiều, có một lần nào có thể với căng thẳng của cảm xúc và thần kinh, bạn đã ngửng
lên nhìn trời và gọi tên người tình? Vì lúc ấy có một nơi nào đó dưới bầu trời
này có một người, một tâm hồn, với đôi tay tình nhân mang nguồn nước ngọt thương
yêu của tình cảm dịu dàng trong suốt. Một lần người viết bài này đã có dịp viết:
bây giờ thành phố dần dần hồi sinh
những tiếng than đóng kín vào ngõ cụt
và mặt trong gọi tên người tình
Thực tại tình yêu luôn luôn là đề tài của thơ, vì tình
yêu là đề tài tốt đẹp nhất của đời sống, người ta có thể coi thường tình cảm vụn
vặt, nhưng về phương diện tổng quát tình yêu mang một ý nghĩa hết sức cao đẹp,
vì tình yêu hội tụ tất cả các khía cạnh thăng hoa của tình cảm nhân loại. Thái
độ ca ngợi và tìm đến tình yêu của Tuyền là thái độ của một người đã ra đi đã
đi tìm, đã suy nghĩ chín mùi và sau cùng thấy rằng cần phải ca ngợi tình yêu
chính vì tình yêu đáng ca ngợi nhất. Tình yêu không phải ở trong điều kiện lý
tưởng nhưng là tình yêu trong hoàn cảnh và điều kiện mỗi người, vì sự ca ngợi ở
đây thuộc giai đoạn chót của lý luận, cũng vì thế nên nó gần với sự xấu nhân bản,
sự xấu nhân bản, thật và trở lên lý tưởng.
Chúng tôi không có ý định giải thích một bài thơ của Tuyền
cũng không có ý định đề cao thơ Tuyền như một người đã vươn tới được cốt cách của
thơ tự do. Đó chỉ là những ý nghĩ nhân nghĩ về một bài thơ và thử tìm một trạng
thái tâm hồn của tác giả trong một bài thơ tự do. Trong các tập thơ của Tuyền, Tôi
không còn cô độc và Mặt trời tìm thấy, đều có chứa những cảm giác sống
của sau những ngày u ám, tới một trận mưa rào sối sả, sau đó là mưa phùn.
ngó
đầu ra ngoài thở hơi mưa
cảm giác ngủ một vùng yên tĩnh
bao giờ ánh sáng cũng chói thẳng con người
tâm hồn rực rỡ bàn tay vẫy
tôi trở lại cùng người thân yêu
không gian tâm hồn trong nhà ngục tâm hồn
thế giới nói thêm lời hoa cỏ thiên nhiên
câu chuyện mặt trời hoang đường như đôi mắt tình nhân
tối hơn
bỗng tin làn mi khép lại.
Đó là những cảm giác đi ra từ trong một giấc ngủ của một
người vừa thức dậy, hay từ một sự biến động của tâm hồn vừa chấm dứt trong những
hình thù của cảm giác váng vất những hình ảnh còn rời rạc từng miếng từng mảnh
giấy từng chiếc lá rơi rải rắc. Vì thật dễ hiểu thế giới tâm hồn và sinh hoạt
cá nhân của con người trong một hoàn cảnh nó cũng tự nhiên hỗn loạn, rời rạc vô
tổ chức như thế. Và một trạng thái tâm hồn của một thanh niên nào đấy mang dấu
tích của toàn thể xã hội nên la khấp khểnh, sô sát đâm chém cộng vào đó là một
khả năng phán đoán sâu sắc bén nhạy nhưng lại cảm thấy bất lực nó phải là điều
kiện cho những ngôn ngữ xâu xích móc nối hỗn tập ở một kiến trúc dị dạng, đa
hình dung:
mỗi
bài thơ khi viết tôi đều nghĩ đến một người
tôi sống thường trực bằng hình ảnh
cửa sổ mở ánh trăng bình minh
ngoại ô nhà ngói đường xe điện
sân ga đường dan díu chân trời
bến tàu phu khuân vác ống khói
hải cảng tàu biển chân vịt quay
ban mai buổi chiều vội vã đêm
tôi sống thường trực bằng hình ảnh
cuộc đời thèm khát không thôi.
Theo chúng tôi thi ca của một xã hội nhất định đều đã ngầm
chứa một dự phòng cho sự sinh hoạt đời sống xã hội đó. Vì người làm thơ là tập
trung, là kết tinh của dữ kiện đời sống hiện tại, là sự tiếp nhận các phần tinh
lọc nhất của đời sống, cho nên người ta có thể vì phần thi ca thật của văn
chương như những lời tiên tri, chúng tôi nói phần thi ca thật, bởi vì thi ca giả
là những mảnh vụn của một đời sống đã tạo sẵn, tự nó chỉ có giá trị xã hội nhỏ
hẹp. Nhưng thi ca thật, bắt rễ từ những sự di chuyển nội tâm, chu trình dài của
ý thức và lý luận, tự nó phải là phần tinh tuyển của đời sống nhân loại, nó
không hoàn toàn phải biểu lộ trong một hình thức hay một thái độ nhất định;
nhưng sự biểu hiện của nó trong những điều kiện nhất định, dù người ta hiểu
sai, vẫn có một hiệu lực phát triển, một khả năng tác động, một giá trị thiết lập
cho đời sống. Nên sự thay đổi ngôn từ trong thơ, trên một phương diện, ngôn ngữ
là một phương tiện diễn tả, nó có giá trị hoàn toàn hình thức, khi ngôn từ ấy
không kết hợp được tác dụng cao nhất của sự kiện, ở phương diện này khi phát biểu
một sự kiện mà ngôn ngữ đã làm hết nhiệm vụ của nó, nhưng sự kiện đã thất bại
thì người ta thấy sự thất bại ấy có ngay trong hành vi làm thơ, trong việc quan
niệm về thơ, hay nói khác quan niệm về thơ của tác giả đã thất bại. Về một
phương diện khác, chính ngôn ngữ có thể là phần nội dung của thơ, người ta
không phân biệt được việc diễn tả và cách diễn tả, người ta nhìn nhận ngôn ngữ
trở lên chính là thơ, cái khung xe hơi chính là cái xe hơi. Lúc đó nếu thất bại
nó thất bại ngay từ đầu, ngay từ khi tạo nên chiếc xe, nhưng nếu nó đạt được một
mực độ nhất định, nó có giá trị tại ngã, một giá trị mà người ta chỉ có thể
không đồng ý chứ không thể phủ nhận được vì nó có mặt, hoặc nếu không, phải phủ
nhận ngay từ đầu.
Nhìn vào thi ca hiện thời người ta nhận thấy rằng thơ tự
do thường ở phương diện thứ hai. Chấp nhận thơ tự do là một giai đoạn nhất định
của sự tiến triển, đồng thời, trong giai đoạn hiện tại là một việc diễn tả
thích hợp và tốt đẹp nhất, vì nó làm trùng hợp cách diễn tả và việc diễn tả, nó
làm trùng hợp và lẫn lộn bề ngoài và bề trong của thơ, người đọc sẽ đi vào tâm
hồn tác giả với sự bừa bộn tự tổ chức của nó. Nó bừa bộn vì nó không theo cách
tổ chức, theo cách xếp đặt trước ít nhất là bề ngoài, nhưng nó tự tổ chức vì nó
có thể được đặt ra trong phần rất sâu xa của ý thức, ý thức văn nghệ và ý thức
lý luận. Sự xâm nhập của ý thức có thể là một trường hợp biệt lệ, cũng có thể hết
sức tổng quát, tổng quát vì ý thức sai khiến nó phải đạt được hình thức nung nấu
nhất trong sự kiện thơ của tác giả cho nên theo ý chúng tôi, một nhà thơ tự do
thất bại khi không tạo được một thế giới riêng cho sự kiện thơ của mình. Thế giới
ấy rất phụ thuộc vào điều kiện cá nhân của tác giả, bởi vì chính tác giả trách
nhiệm hết về cái mình ném ra. Giá trị của thơ tự do thường thường được xây dựng
ngay từ giá trị tối thiểu để đạt tối đa, vì thế nó phải có một giá trị tối thiểu,
nếu thành công chính giá trị đó trở nên vô hạn còn không nó đứng nguyên ở vị
trí tối thiểu trong quan niệm của người diễn tả.
Đối với Thanh Tâm Tuyền:
Những đêm nào chiến tranh đã quên
con mắt đen niềm im lặng
Anh vẫn đi hoài trong thành phố
cô đơn chưa nắng cháy
vào sâu trong ghẻ lạnh.
Hình thức ấy và sự kiện ấy quấn lấy nhau trong một nhịp lạ
một nhịp bước đi của chàng thi sĩ trong thành phố người yêu, thành phố ấy dù
người cô đơn vẫn có thể tình tự với mình.
Quan niệm về thơ cũng có thể là một lúc là quan niệm về
cuộc đời, ít nhất nó cũng có một điểm chung là bắt nguồn từ một cái nhìn. Vì vậy
cách quan niệm về sự tối thiểu để xây dựng tối đa là quan niệm cấp tiến, một
quan niệm chung để xây dựng con người mới; và chúng tôi đồng ý hoàn toàn tới
Thanh Tâm Tuyền với ý tưởng về cái nhan sắc có lúc không có gì nữa của một cô
gái:
“Ánh nắng lộ liễu của nửa sáng chiều vào phòng đã phô
ra trước mắt tôi một con người khác đêm trước; tôi ngạc nhiên những không thất
vọng. Cái mặt rỗ của Hội làm hắn xấu hổ đi nhưng tôi tra cái xấu đó, cái xấu
làm cho người ta trở lên tầm thường và dễ yêu hơn”.
Đêm trước cô con gái phấn sáp trong ánh sáng mờ nhạt của
ánh đèn, cô gái để ra một nhan sắc tạm được và làm gã con trai thỏa mãn. Nhưng
không phải hắn liên lạc với cô con gái chỉ bằng vẻ đẹp ấy, thái độ của hắn trở
nên thật và nghiêm chỉnh khi nhận ra rằng dưới ánh sáng ban ngày và mặt không
son phấn hắn vẫn làm hắn ưa được cô gái, hắn ưa cái xấu đó, vì nó làm cho người
yêu hèn mọn tầm thường dẽ yêu và cũng gần gũi hơn. Ý kiến ấy cũng là ý kiến của
Ernest Renan trong ý kiến về mối liên lạc giữa những người thân nhau. Trong
tình cảm thật của một người nghiêm chỉnh cái xấu, cái lầm lạc, cái khổ sở là điều
kiện xây dựng của sự liên lạc nhau, bởi vì xây dựng mình trên quan niệm chính
đáng ấy chính là từ tối thiểu qua khỏi được mức quan niệm trung bình.
Thanh Tâm Tuyền nói riêng và người làm thơ sử dụng ngôn
ngữ như một phương tiện hành động. Thi ca nó không là sự thất vọng, sự bất lực
cũng không phải việc làm những bài thơ là đạt được hành động lý tưởng. Thi ca
chính nó là một hành vi thật tuyệt đối trong ý nghĩa của đời sống của con người,
nó tuyệt đối vì nó hoàn toàn nguyên vẹn, một sự hoàn hảo mà con người đọc thơ
và người làm thơ hướng tới như theo hướng các ngôi sao nhưng không bao giờ tới
được. Chính vì chúng ta không thể đạt được mà con người vẫn tiếp tục làm thơ,
trước kia đã làm và sau này sẽ làm trong những điều kiện nhất định của cá nhân
và xã hội.
Thanh Tâm Tuyền đã làm thơ và thơ Thanh Tâm Tuyền đã nói
lên trong một trạng thái cá nhân và xã hội nhất định của một sự biến chuyển nhất
định. Vì thế chúng ta đã đọc thơ Thanh Tâm Tuyền và những người khác cũng như
sau này sẽ đọc thơ của một số những người khác những thi sĩ khác, chúng ta chưa
biết họ, họ chưa có, nhưng chắc chắn sẽ có mặt và sẽ viết thơ cho mình và người
khác đọc.
NGUYỄN QUANG HIỆN
VĂN - SÀI GÒN 1964
VĂN - SÀI GÒN 1964