Nhà thơ Phạm Trung Tín
Đọc tập thơ mới của anh, tác phẩm Lời của đá tôi
vừa ngạc nhiên vừa vui mừng vì dường như Phạm Trung Tín đã thoát được giai đoạn
thơ hồn nhiên, chân phác của người lính ra đi từ miền quê Hải Phòng đậm màu gió
biển và hương lúa đồng bằng… để tiếp cận với thơ hiện đại mang dáng vẻ lịch lãm
của người đang hứng khởi nhận đường đúng hơn. Hành trình thơ anh đã rẽ sang một
hướng khác tươi mới và xao động hơn với những tìm tòi sáng tạo đáng ghi nhận, một
Phạm Trung Tín mới mẻ, trăn trở, tự ý thức làm mới thơ mình.
Thường thì làm thơ, cái khó trước hết là tìm ra ý tưởng độc
đáo (cũng có thể cho là tứ thơ) rồi mới đến triển khai bài thơ theo ý định của
mình, song song với sử dụng ngôn từ… Ta nhận thấy rất rõ một Phạm Trung Tín đã
chú ý đến tư duy nghệ thuật thơ, với đặc trưng rất riêng của thơ là hàm súc, ấn
tượng, ám ảnh người đọc.
Tập thơ này không theo một chủ đề riêng nào nhưng sức bay
và sức đọng, giữ chân được người đọc, chủ yếu ở hình tượng, hình ảnh thơ và
chuyển đổi ngôn ngữ nhiều khi có vẻ phi lý nhưng lại là cái hợp lý của thơ hiện
đại. Và như thế thơ của anh đang cố gắng vươn lên ngang với mặt bằng của “thơ
đích thực”. Những câu thơ, khổ thơ làm ta dừng lại thích thú:
Nắng chuyển mình răng rắc
Mây gãy vụn
Gió núp vào khô khát
Chân cỏ rung vỏ đất tìm sương
…
Biển ẩn vào chỗ trũng
Rừng phơi lên ngàn xanh…
Dặm dài bươn chải áo cơm
Thảo thanh thơ hát tứ thơm tặng đời…
Tiếng chim dính trắng hạt mưa
Sợi mềm vai én đan lùa thảm xuân.
Chừng ấy thôi, ta cảm nhận được sự lột xác của người thơ
và hình như nội lực của thơ anh đang phát tiết mạnh không ngờ.
Tập thơ Lời của đá - Phạm Trung Tín
Mạch thơ trữ tình của Phạm Trung Tín đã mở rộng ra biển đảo
và những vùng miền thân thiết với anh, nhưng sự thánh thiện, nhân văn cũng
không bỏ qua những chuyện đời, chuyện tình yêu muôn thuở…
Trong bài Tản mạn Chí Phèo anh có những
câu thơ hay và không cũ:
Bát cháo hành Thị Nở
Nêm tình trăng đầm đìa
Cho Chí Phèo bớt dại
Sương đẫm vườn chuối khuya…
Bài Từ em, cũng đã cách tân câu chữ, không cầu
kỳ mà lại mới ở cách biểu đạt và vận dụng ngôn từ:
Buồn loang loang kín những buồn
Trắng chan bề mặt đen luồn đáy sâu
Đàn rung dây rắc điệu sầu
Căng chùng mấy mảng huyền nâu trắng vàng…
Gót son khỏa sóng chơi vơi
Ta giờ chìm nổi nỗi đời… vì đâu…
Bước thử nghiệm thơ của Phạm Trung Tín có thể nói là
chông gai, vì đang tạng thơ tả chân anh mạnh dạn chuyển sang giọng điệu thơ mới,
hiện đại, thay đổi hẳn thi pháp là chuyện không đơn giản. Nó đòi hỏi kiên trì,
công phu, nghiêm túc trong nghệ thuật sáng tạo. Tôi hy vọng và tin tưởng anh
trên bước đường mới đam mê và gặt hái được những thành công sau những mùa cày ải
vất vả trên cánh đồng thơ của mình. Người ta thường bảo văn chương là nghiệp
chướng, nhưng thơ còn nghiệp chướng hơn. Nhưng ta tin cái nghiệp chướng thiên
phú đó góp ích cho đời đẹp hơn, đáng sống và đáng yêu hơn.
TP.HCM, 11.2015
LAM GIANG
(Lời tựa tập thơ Lời của đá)
Thơ PHẠM TRUNG TÍN
KÝ ỨC THÀNH ĐỒ BÀN
Chiều đông qua Đập Đá
Buồn nghiêng một mảng trời
Núi Cánh Tiên sừng sững
Sông trôi ngang mắt người
Ngót ngàn năm vật đổi
Oai linh thành Đồ Bàn
Nâng ly rượu Bàu Đá
Trầm tư cùng thế gian
Trôi về đâu
Vương quốc Chămpa cổ đại
Tiếng nói
Chữ viết
Phiêu dạt cực Nam
Phong tục
Con người
Trăng, nước, mây xưa vẫn hiện diện
Vắng chứng nhân lịch sử
Một thời
Chế Mân, Chế Bồng Nga bí hiểm
Tháp Chăm xưa
In bóng muôn đời
Gió tự phương Bắc
Sóng gào biển khơi
Lưu dấu những đoàn người
Thời xa lắc
Vó ngựa dồn
Mù mịt bụi thời gian
Châu Ô
Châu Lý
Công chúa Huyền Trân
Đổi đất trao tình
Mở mang bờ cõi
Khai rừng lấn biển
Lửa Đồ Bàn
Lạnh nguội tâm linh
Ta kẻ hậu sinh
Qua miền đất cũ
Rờn rợn chiều
Tiếng ngựa hí, gươm khua
Thương cha ông
Cần lao lam lũ
Trải lắm điêu tàn
Đau một thời
Nam Bắc ly tan.
VỚI HÀN MẠC TỬ
Sương giăng núi
Mây loang đồi
Gió mưa sùi sụt
Trắng trời Quy nhơn
Hàn ơi
Ai khóc
Ai hờn
Trăm năm
Ghềnh Ráng
Nguồn cơn nghẹn ngào.
ĐẦM THỊ NẠI
Mênh mang
Chiều mưa giăng
Thị Nại bát ngát bến bờ
Vùng nước bao la uốn mình ôm biển
Tâm tưởng lùi xa về dĩ vãng
Thủy quân Tây Sơn hùng cứ một thời
Áo vải cờ đào
Tài thao lược
Các chiến binh quả cảm
Luyện quân rèn tướng
Võ nghệ Bình Định tuyệt vời
Soái thuyền chỉ huy
Nữ tướng Bùi Thị Xuân
Đô đốc Trần Quang Diệu
Am tường địa lý thiên văn
Hiểu rõ con nước lớn ròng
Thông thạo luồng lạch tận rạch Rạch Gầm - Xoài Mút
Dụng thiên binh mưu lược nhà Trần
Khép thế trận thư hùng
Đẩy năm vạn quân Xiêm La tháo chạy
Dẹp xong loạn xâm lăng
Thong dong buồm lướt sóng
Trở lại bến Quy Nhơn
Xuân Kỷ Dậu
Các hải thuyền chuyên chở tượng binh
Thần tốc vượt biển
Hội quân tiêu diệt hai mươi vạn Mãn Thanh
Mùng năm tết, Đống Đa giỗ trận
Áo long bào sạm đen khói súng
Quang Trung oai hùng
Giải phóng Thăng Long
Thị Nại đầm xưa
Đồn trú thủy quân Tây Sơn dũng mãnh
Nay Thành phố biển duyên hải miền Trung
Sáng bừng ánh điện
Thị Nại thơ mộng mênh mang
Cầu nối băng ngang phô muôn sắc huy hoàng
Lửa ấm làng chài, du lịch xanh , bến phố
Bồi hồi thương người nông dân Nguyễn Huệ
Vương bá tan tành
Hồn phách tha hương.
ĐAU NỖI NIỀM CHI
Kính
gởi hương hồn cụ Nguyễn Công Trứ
Cụ ơi, đau nỗi niềm chi
Mà răn hậu thế đừng đi đường đời
“Kiếp sau xin chớ làm người”
Nghe chua xót dạ - ngẫm cười thương tâm
“Đường quan” bao nỗi thăng trầm
Đức nhân xuất chúng, ca cầm tài hoa
Khai hoang, lấn biển, lập toà
Dinh điền duyên hải, thái hoà an dân
Một thời vua chẳng minh quân
Ngụy quân tử lấn lướt chân anh hùng
Hiền lương không đất vẫy vùng
Sĩ phu ngoảnh mặt, dân cùng oán than
Chắc người ngán ngẩm “nghiệp quan”?
Hay đau nhân thế hàm oan cõi đời?
Bất bình nghĩa lạc tình lơi
“Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”
Tiết hạ chí Bính Thân 2016
THÔNG ĐIỆP HÒA BÌNH
Tặng ngài Obama
“Rằng trăm năm cũng từ đây”*
Một Tổng thống Mỹ
Một tay lẩy Kiều…
Trao nhau kỷ vật tình yêu
Thúy Kiều - Kim Trọng ước điều nghĩa ân
Tích xa dẫn đẹp chuyện gần
Ý tình thâm diệu “đối nhân - tri thời”
Đến từ vạn dặm trùng khơi
Khách ăn bún chả, chủ mời uống bia
Bình yên gặp gỡ sẻ chia
Mặc cơn sóng dữ biển kia ầm ào
Khép êm quá khứ lao đao
Dù không quên thuở chiến hào máu xương
Nâng tầm đối tác giao thương
Hiệp định Xuyên Thái Bình Dương… hẹn ngày
Giã từ Hà Nội rồng bay
“Của tin gọi một chút này làm ghi”*
Cái tình cái nghĩa tuơng tri
Có nhân duyên, có nghĩa nghì - thì nên.
_________
* Các câu Kiều ngài Obama
trích dẫn trong các diễn văn
khi sang thăm Việt Nam cuối
tháng 5.2016
_____________________________________
Nhà thơ Phạm Trung Tín sinh ngày 12 tháng 12 năm 1956 ở
xã Hiệp Hòa, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Tốt nghiệp Cử nhân triết học
và Cử nhân kinh tế. Hiện thường trú 340/2/21 Quang Trung, phường 10, quận Gò Vấp,
TP. HCM và 19/15 đường Vĩnh Phú 02, khu phố Đông, phường Vĩnh Phú, thị xã Thuận
An, tỉnh Bình Dương.
Sau khi học hết cấp III ở quê hương Hải Phòng, Phạm Trung
Tín đã gia nhập quân đội từ năm 1973 - 1979, phiên thuộc Trung đoàn 141, Sư
đoàn 7, Quân đoàn 4. Tháng 4 năm 1979, ông chuyển ngành về Bộ Công nghiệp nhẹ,
học tập trung tại Trường Công đoàn TP.HCM, học tại chức Trường Đại học Tuyên
giáo và Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.
Từ năm 1995-2007, ông là Trưởng phòng Pháp chế KDXNK, Chủ
tịch Công đoàn Cty DVKT Thủy sản Vũng Tàu, Tổng Cty Hải sản Biển Đông, Bộ Thủy
sản Việt Nam. Ông nghỉ hưu từ năm 2008, về tham gia công tác địa phương và sinh
hoạt sáng tác thơ ca.
Hội viên Hội Nhà văn TP.HCM năm 2015.
Tác phẩm đã xuất bản:
- Dặm dài ký ức (thơ), NXB Thanh Niên
năm 2013
- Miền tâm tưởng (thơ), NXB Hội Nhà văn
2014
- Lời của đá (thơ), NXB Hội Nhà văn 2015
Quan niệm sáng tác văn học:
Sáng tác văn học phải phục vụ nhu cầu thưởng thức nghệ
thuật chân chính của công chúng độc giả. Hoạt động sáng tác văn học có quan điểm
chính trị xã hội đúng đắn, hướng tới cổ suý các phạm trù chân, thiện, mỹ và các
giá trị nhân văn cao cả.
Là hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, tôi sẽ cố gắng hoàn thành
tốt nhiệm vụ của mình, góp phần xây dựng hội vững mạnh, tham gia hỗ trợ các hoạt
động đạt kết quả cao. Tôi cũng phấn đấu với nguồn cảm hứng sáng tác mới để có
nhiều tác phẩm tốt.