Nhà văn Lê Văn
Nghĩa cho rằng, tâm hồn Hà Nội thích trầm lắng, thích suy nghĩ sâu xa những vấn
đề của văn chương. "Tâm hồn Sài Gòn" thiên về nhanh, hiện đại. Và tâm
hồn ấy, mặc dù có vẻ gấp gáp đó, chóng vánh đó, vẫn là một tâm hồn dễ động lòng
với những điều đã qua…
Nhà văn Lê Văn Nghĩa
Có lẽ, câu hát
"Những ngày tôi lang thang/ Tôi mới hiểu tâm hồn người Hà Nội"
quá nổi tiếng nên đi đâu, người ta cũng hay nhắc "tâm hồn người Hà Nội"
(nhạc Lê Vinh, thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường).
Ít ai nói
"tâm hồn người Sài Gòn". Nhưng nếu như một lần đọc những cuốn sách của nhà văn Lê Văn Nghĩa, có thể,
ai đó sẽ bắt gặp những mảnh - hồn - tình mang gương mặt của Sài Gòn thất lạc ở đâu đó. Một
gương mặt được mã hóa bằng lớp ngôn ngữ mà giờ đây khi nói tới, có khi người ta
cũng èo ôi, giờ nói chi mấy cái chuyện ngày xưa ấy nữa.
Nhưng Lê Văn
Nghĩa không làm một cuộc tẩu thoát bay biến như vậy. Với ông, Sài Gòn vẫn
mãi ở đó, vẫn là xứ Sài Gòn - Chợ Lớn rong chơi. Và mùa hè đẹp nhất trong đời vẫn là mùa hè năm Petrus, những năm 60 của
thế kỷ trước, gắn với ngôi trường trung học Petrus Trương Vĩnh Ký lừng
danh.
Trong tập tạp bút Sài Gòn dòng sông tuổi thơ, nhà văn Lê Văn Nghĩa từng bộc bạch: "Tự
thân tôi đã sống trong "nó" (ý chỉ Sài Gòn - PV) và
"nó" sống trong tôi như một
dòng chảy ngầm bất biến".
Cuốn sách Địa chí văn hóa TP Hồ Chí Minh (GS.
Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, GS. Nguyễn Công Bình chủ biên, NXB TP Hồ Chí
Minh, năm 1988) từng viết đại ý rằng, tiếng Sài Gòn vào cuối thế kỷ XVIII đầu
thế kỷ XIX từ vị trí là phương ngữ
được hình thành ở vùng đất mới như các phương ngữ địa lý khác vượt lên,
trở thành một ngôn ngữ thành phố, đáp ứng nhu cầu giao tiếp và phản ánh cấu
trúc xã hội, sinh hoạt của thành phố này.
Thì đến nay, rõ ràng, tiếng ấy đã đi một quãng đường khá
dài. Trong quá trình ấy, có xáo trộn, có giao thoa, có đứt gãy, có quên lãng,
có cả bị "trắng" hóa hoàn toàn.
Ví dụ như, dân
Sài Gòn của những năm 2016-2017 này, chẳng còn ai nói "hạng nhất"
là "số dách", "hạng bét" là "nâm bờ then",
"làm ra vẻ, làm bộ tịch" là "lấy le". Chẳng ai gọi
"ông bà già" là "ông bô, bà bô" nữa. Chẳng ai nói đi uống
bia là "uống la de" và cũng chẳng còn tụi trẻ con nào đi xem phim
chui mà gọi là đi "coi hát cọp" cả...
Một hệ thống ngôn ngữ Sài Gòn xưa, theo dòng chảy thời gian mà bị phai mòn
và mất vết khỏi đời sống, như thể nó chưa từng hòa nhập để rồi hòa tan không có
thân phận.
Viết đến đây, sẽ có người thắc mắc, ngôn ngữ thì cần thân
phận chi trời? Nhưng ngôn ngữ là diễn
ngôn của đời sống, là một thứ đời sống đã được "mặc áo". Vì thế,
ngôn ngữ cũng có thân phận, cũng cần thân phận.
Qua mỗi trang viết, qua mỗi câu chuyện, qua những ký ức
có phần lộn xộn, chắp vá năm này năm kia, Lê Văn Nghĩa muốn tìm lại chút thân
phận có phần riêng tư ấy cho Sài Gòn.
Và phải là tiếng Sài Gòn xưa mới chịu.
Bởi lẽ, cuộc đời của ông đã dừng lại mãi ở những năm 1960 ấy. Những năm
mà ông kể, đó là thời gian đẹp đẽ nhất của cuộc đời.
Nói như thế, không có nghĩa nhà văn là người cực đoan. Hơn ai hết, ông hiểu, ngôn ngữ luôn
vận động, cựa quậy và khi một lớp ngôn ngữ cũ không còn hợp thời thì sẽ
có một lớp ngôn ngữ mới ra đời.
Lê Văn Nghĩa không kháng cự, không bài xích ngôn ngữ Sài
Gòn hiện nay. Nhưng khi mọi người đều
chuyển dịch, ông đứng lại, ngắm nghía cái ký ức của mình. Ông muốn tái
hiện lại không gian hoài niệm ấy bằng chính ngôn ngữ mà nó thuộc về, đã từng
thuộc về. Và ngôn ngữ trở thành hồn cốt, làm nên không gian, diện mạo Sài Gòn xưa trong những tác phẩm của nhà văn sinh
ra tại đất Chợ Lớn này.
Để rồi, lúc
nào, Lê Văn Nghĩa cũng xuất hiện trước mọi người với dáng vẻ đó. Hơi rầu rầu,
hơi không muốn "vô can" tới cuộc đời; nhưng lại khiến người ta ngạc
nhiên bởi tiếng cười khúc khích mà ông đem đến. Một tiếng cười biết ơn. Một tiếng
cười tự tình.
Đọc Chú chiếu bóng, nhà ảo thuật, tay đánh bài và
tụi con nít xóm nhỏ Sài Gòn năm ấy; Sài Gòn dòng sông tuổi thơ; Mùa hè năm Petrus và Tụi lớp Nhứt trường
Bình Tây, cây viết máy và con chó nhỏ... để thấy dư âm của những mảnh
hồn tình còn rơi rớt đâu đó; để thấy,
sau nước mắt, sau khốn khó, là Sài Gòn nghĩa tình, là tình yêu thương đùm bọc giữa người với người.
Và giữa mông
lung chai sạn ấy, gương mặt Sài Gòn hiện ra rõ ràng, mồn một với những
nhân vật, những con người thuộc về
Sài Gòn - không phải là vùng đất nào đó khác. Nhắc về Sài Gòn, cũng là
nhắc tới ông Nguyễn Hùng Trương - chủ
nhà sách Khai Trí trên đường Lê Lợi, nhà thơ Kiên Giang, nhà văn Sơn Nam, Thẩm
Thúy Hằng,... hoặc những tờ báo học trò như Tuổi Hoa, Tuổi Ngọc, Thằng Bờm... Tất
cả những điều đó giờ đây trở thành một thứ biểu tượng của Sài Gòn.
Và trong không gian ấy, ngôn ngữ trở thành chất keo kết
dính giữa hiện tại và quá khứ, giữa Sài Gòn xưa và Sài Gòn nay, giữa nhà văn Lê Văn Nghĩa của năm 2017 với cậu bé
Lê Văn Nghĩa bé tí tẹo học ở trường Tiểu học Bình Tây ngày ấy. Ngôn ngữ cũng trở
thành "vết lông ngỗng" để Lê Văn Nghĩa tìm về những tháng ngày bình
yên ấy. Ông muốn phác thảo lại thứ ngôn ngữ ấy, để khi nói lên, để khi đọc lên,
người ta sẽ biết ngay đó là ngôn ngữ
của một thời, ngôn ngữ của Sài Gòn một thuở.
Thời này, ai gọi những người "gan lì, tài giỏi" là "chì" nữa? Thời giờ,
còn ai nói "tính nhẩm" là "bí rợ" không trời? Và "phục
vụ" thì nói phục vụ quách đi, sao nói "phổ ky" cho rắc rối không
à? Rồi, trời ơi, kêu "cà
phê sữa" mà nói là "cái xây nại" thì ai mà hiểu cho nổi?...
Sẽ có người tức anh ách và phàn nàn
những điều đại loại như thế khi đọc những trang viết của Lê Văn Nghĩa.
Nhưng cũng sẽ
có những người cười khúc khích khi gặp lại vì thấy bóng hình quê hương ở đó. Nếu "thua" thì
phải gọi là "bú lủng", nếu "rời khỏi nơi nào đó một cách mau lẹ" thì phải gọi
là "dông". Trẻ em mà thèm "kẹo sô-cô-la" thì phải viết là
"chó-có-lát". Rồi nữa, "người lo giấy tờ, văn thư" thì phải kêu là "tùy phái".
Thế mới là Sài Gòn. Thế mới chuẩn Sài Gòn không cần chỉnh.
Nhà văn Lê Văn Nghĩa không tham vọng tái hiện hết không
gian văn hóa Sài Gòn xưa. Ông cũng tự
nhận, Sài Gòn với ông, chỉ là Chợ Lớn, là con đường nhỏ Phạm Văn Chí, là
trường Tiểu học Bình Tây, là
bến Bình Đông với những cái "chành" (kho) chứa gạo thương hồ đẫm mồ hôi những người làm nghề vác gạo,
là những căn nhà Hoa nhưng có kiến trúc theo kiểu Pháp.
Sài Gòn
ấy, là dòng sông tuổi thơ, gắn với
những rạp hát nhỏ như rạp Vĩnh Khánh, rạp Tân Lạc, Tân Bình..., là khu
thị tứ với những chiếc xe hơi
Renault, Deux Chevaux, những tòa cao ốc, những anh, những chị ăn mặc
xinh đẹp vô cùng xa lạ với thằng nhỏ xóm nghèo Lê Văn Nghĩa ngày ấy. Sài Gòn
mãi mãi dừng lại với những dư ảnh ấy.
Người ta hay
nói "tâm hồn người Hà Nội" như một thứ "tâm hồn đô thị". Ít
ai nói "tâm hồn người Sài Gòn". Cứ như Sài Gòn lạnh lùng, khô cạn. Cứ như Sài Gòn chạy xuôi, không có chạy
ngược. Cứ như Sài Gòn không
có tính cách đô thị. Nhưng Sài Gòn cũng có tính cách của mình, thậm chí là rõ
nét.
Nhà văn Lê Văn Nghĩa cho rằng, tâm hồn Hà Nội thích trầm
lắng, thích suy nghĩ sâu xa những vấn đề của văn chương. "Tâm hồn Sài
Gòn" thiên về nhanh, hiện đại. Và tâm hồn ấy, mặc dù có vẻ gấp gáp đó,
chóng vánh đó, vẫn là một tâm hồn dễ động lòng với những điều đã qua.
Khi đọc những cuốn sách viết ra "cho thiếu nhi nhưng
người lớn đọc cũng hổng sao, mà người
già đọc càng khoái" của nhà văn Lê Văn Nghĩa, không hiểu sao, phía sau tiếng
cười hóm hỉnh, khúc khích duyên dáng ấy, tôi vẫn thoáng thấy đôi mắt của ông.
Một đôi mắt
như mở ra be bé để nhìn đời sống, lại vừa như nhắm mắt lại để trầm ngâm,
nhớ về quê hương Sài Gòn ngày
xưa đó. Một Sài Gòn của những
cửa hàng đầy màu sắc xanh đỏ tím vàng ở Chợ Lớn, một Sài Gòn đầy thân phận, có
bản sắc, có ngôn ngữ riêng. Sài Gòn của cậu bé Lê Văn Nghĩa, sống mãi trong
"mùa hè năm Petrus" đó.
ĐẬU DUNG
Nguồn: ANTG
ĐỌC THÊM VĂN CHƯƠNG PHƯƠNG
NAM: