Nhà thơ Thanh Thảo
Điều gì khiến những sáng tác rời rạc, rải rác, bề bộn kết
thành một bức tranh duy nhất, những mảnh vỡ gắn thành nhất thể? Kẻ viết nào mới
là tác giả ?
Mượn cách nói
của Chế Lan Viên: kẻ ấy phải có cái lõi trầm trong ruột. Khi trong ruột
đã có lõi trầm, thì mỗi cái được viết ra, dù rất không đâu, rất xa nhau cũng đều
là một làn hương từ một thứ trầm duy
nhất đó.
Lõi trầm
ấy còn có thể là gì khác hơn một tư
tưởng nhân văn riêng? Mỗi tác giả chân chính xuất hiện là sự cất tiếng của một
tư tưởng nhân văn thực sự nào đó. Không có điều này, anh chỉ là kẻ a dua, là bản
sao, là cái bóng của ai đó mà không tự biết, cái viết ra sẽ chỉ là những vay mượn,
vá víu không tự biết (dù có thể rất hồn nhiên)
Phần cốt lõi
nhất của tư tưởng nghệ sĩ là gì
nếu không phải là những quan niệm riêng ? Quan niệm nào vậy ? – Quan niệm nhân
sinh và thẩm mỹ. Nếu quan niệm nhân sinh trả lời câu hỏi về hạnh phúc, thì quan
niệm thẩm mỹ trả lời câu hỏi về cái đẹp. Cả hai tìm thấy nhau trong cùng một
băn khoăn chung: thế nào là giá trị người, giá trị sống. Mỗi nghệ sĩ chân chính phải là một niềm băn khoăn, một
câu trả lời. Tất nhiên, bằng sáng tác của mình. Băn khoăn ấy là cái lõi
trầm trong ruột người nghệ sĩ. Dù có
thể anh ta không ý thức rõ về nó, dù có khi bất lực trước nó. Kẻ viết có thành tác giả hay không, lớn
hay bé, phụ thuộc vào điều anh có hay không mối băn khoăn ấy và tầm cỡ nó thế
nào.
Trong thế hệ của
mình, Thanh Thảo thuộc số ít người viết đã có băn khoăn như thế ngay từ sáng tác đầu tay:
Hạnh phúc nào cho
tôi ?
Hạnh phúc nào cho
anh ?
Hạnh phúc nào cho
chúng ta ?
Hạnh phúc nào cho đất
nước?
Những câu hỏi chưa
bao giờ nguôi được.
(Thử nói về hạnh phúc)
Đó cũng là những câu hỏi đeo bám suốt đời thơ Thanh Thảo.
Cho đến tận sáng tác gần đây nhất, trường ca Metro, sau 40 năm lăn lộn trường
văn trận bút, câu hỏi ấy đâu đã chịu buông tha anh: “nhưng hạnh phúc là gì?”,”không ai đủ sức trả
lời / dù còn cả cuộc đời trước mặt” . Cũng đeo bám như thế là băn khoăn khôn cầm
về cái đẹp. Lúc này: “Cái đẹp là sự thật”, lúc kia: “Nhìn cái đẹp hiện diện,
thơ linh cảm cái đẹp sẽ hiện diện”, chỗ khác:“Cảm giác về cái đẹp thường gắn liền
với cảm giác nuối tiếc, nó hướng ta nhìn lại cái đã qua bằng cái nhìn sâu xa hơn”(Khối vuông rubich)v.v… Chúng là những
băn khoăn song sinh, song hành. Cả hai thường nhập làm một trong niềm băn khoăn
về giá trị sống, giá trị người:“Mong một ngày hiện rõ / chất thật mỗi
con người”, “phải trả giá cho mỗi phẩm
chất người / dù rất nhỏ” (Đêm trên cát)... Toàn bộ sáng tác Thanh Thảo, xét đến
cùng, mượn cách hình dung của chính anh, cũng là một khối rubích, mà mỗi
tiếng thơ tựa một ô màu, tất cả những
ô màu ngỡ rất hỗn loạn, kì thực lại xoay quanh một cái trục bí mật duy
nhất là mối băn khoăn ấy thôi.
Vỡ lẽ của Thanh Thảo cho mối băn khoăn ấy là gì? Cất công
tìm kiếm, người đọc sẽ thấy ẩn trong
thế giới nghệ thuật phong phú của anh hai chìa khóa: lấp lánh và lặng lẽ.
Chơi chữ chăng? giật gân chăng?
Không. Lặng lẽ tỏa sáng, lặng lẽ làm người, đó là cái đẹp và hạnh phúc, đó là
giá trị sống, giá trị người theo quan niệm Thanh Thảo. Trong cái thế giới ồn ào
đầy rẫy những bạo tàn, phàm tục, giả trá này, cái đẹp thuộc về sự lặng lẽ. Những
tinh thể quí giá thường kết tinh trong lặng lẽ. Những phẩm giá cao quí thường lấp
lánh trong lặng lẽ. Vẻ đẹp cứ lặng lẽ làm chính nó. Con người cứ lặng lẽ là mình.
Không màu mè, không ồn ào, không phô phang, không diễn. Không được ai biết đến,
không cần ai biết đến. Hiện diện thế là đẹp, được sống như thế là hạnh phúc. Lặng
lẽ tỏa sáng là vẻ đẹp thiên nhiên, lặng lẽ làm người là vẻ đẹp nhân cách cuốn hút hồn thơ Thanh Thảo.
Chẳng phải thế sao ? Ai đọc cũng có thể thấy vô vàn những hình sắc khi
thì bất ngờ hực sáng, lấp lóa, lấp loáng, khi thì long lanh, lóng lánh, lấp
lánh trong cỏ cây, sông nước, biển
núi, mây rừng của thế giới thi ảnh Thanh Thảo, dù ở thời trận mạc hay thời bình,
dù trong quá khứ lịch sử hay trong cuộc sống đương thời. Ai đọc cũng sẽ thấy những
vẻ đẹp người mà Thanh Thảo cả đời say mê khám phá như lòng nhân hậu, đức hi sinh, đặc biệt là
tính can đảm, trung thực, nghĩa khí của thế giới nhân vật trên mọi chặng thơ anh, dù của những người lính hay người mẹ,
nghệ sĩ hay nghĩa sĩ, nhà thơ hay trẻ thơ… bao giờ cũng hiện ra trong lặng lẽ.
Mỗi vẻ thiên nhiên ấy khác nào một giọt nước mắt vầng trăng/ long lanh trong
đáy giếng/ ! Mỗi chất người ấy khác nào một đạo hào quang ấp ủ trong cõi
sâu lặng lẽ của con người ! Lấp lánh
mà lặng lẽ, lặng lẽ mà lấp lánh, là giá trị cũng là hạnh phúc, vì thế,
nó là vẻ đẹp thơ suốt đời Thanh Thảo. Ngay từ sáng tác đầu tay, nó đã đến với
anh. Và anh sẽ cứ tìm kiếm nó, tôn vinh nó suốt cả đời thơ mình. Bởi thế, đó chẳng
phải là cái trục bí mật của khối rubích thơ anh sao? chẳng phải cái lõi trầm trong hồn thơ anh sao?
***
Lõi trầm
trong hồn thi sĩ chắc chắn sẽ nhạt hương nếu thiếu đi thành phần này: quan niệm riêng về thơ. Quan niệm thơ,
quan niệm nhân sinh, quan niệm thẩm mĩ của chính kẻ viết bao giờ cũng đồng hành
và chuyển hóa lẫn nhau để cùng làm nên cái lõi trầm bí mật của đời thơ
tác giả. Có thể xem đó là tam vị nhất thể của một quan niệm nghệ thuật toàn vẹn
ở một kẻ viết chân chính.
Trong thơ, kẻ
viết nào chỉ quen lối nằm mai phục để chộp từng ý tưởng, từng thi tứ đến từ đâu đó ngoài mình,
kiểu ăn đong, chắc chắn không thể đi đường dài. Kẻ đi đường trường tựa như cây
lớn, ít bận tâm ở cành nhánh, mà chăm lo nhiều cho gốc rễ. Ngay từ rất sớm,
Thanh Thảo đã xem cái gốc của thơ
chính là nhân cách thơ. Thơ là sự cất tiếng của nhân cách nhà thơ, đó là xác
tín của thi sĩ này. Có nhân cách thơ, tất sẽ ra thơ, có gốc tất sẽ đâm cành.
Khi nhân cách nhà thơ lên tiếng, đó đã là thơ rồi. Quan niệm này được anh phát biểu ngay từ đầu
những năm 80 thế kỉ trước: “Thơ bắt đầu từ đâu ? Từ ý tưởng, thực tế, từ cái nhìn hay cảm xúc?
Theo tôi, thơ phải bắt đầu từ chính
nhân cách của nhà thơ, nó là xương sống của cả đời thơ. Sau đó tới tài năng và
lao động. Dĩ nhiên chỉ có nhân cách không đủ thành thơ, cũng như chỉ có xương sống
chưa đủ thành người. Nhưng sẽ ra sao nếu con người thiếu xương sống ? Đối với
nhà thơ, nhân cách vừa là tiền đề, vừa là kết quả của tài năng và lao động. Có
một quan hệ biện chứng giữa những điều này(…) Thơ kín đáo ngay ở chỗ nhà thơ
khi viết buộc phải phơi trần tâm hồn mình trên trang giấy, ở chỗ nhà thơ không còn nơi trú ẩn nào khác cho nhân cách của mình,
ngoài bộc lộ nó thành tâm”[1]. Đây không hẳn là một quan niệm độc đáo, song, chắc
chắn là quan niệm đúng đắn. Đáng nói hơn, nó giúp ta lí giải được nhờ đâu thi
sĩ có thể đi đường dài với thơ. Khi
xem nhân cách thơ vừa là tiền đề, vừa là kết quả của tài năng và lao động, đồng
thời thấy rõ có một quan hệ biện chứng giữa những điều này, Thanh Thảo
không chỉ đem đến một cách hiểu riêng về nhân cách thơ mà còn hé mở một mong cầu: người thơ thứ thiệt phải sống thơ trước khi
làm thơ. Đời sống hàng ngày của một nhân cách như thế, tự nó đã là sự chưng cất, sự kết tinh thơ rồi. Coi gốc của
thơ là nhân cách thì trữ lượng
thơ của một hồn thơ xem như đồng nhất với số phận người thơ. Chừng nào còn
sống thơ, chừng ấy còn nguồn
thơ. Phải có một nguồn thơ như thế mới
có thể đi đường dài, mới có thể trường kì với trường ca.
Quan niệm về gốc
của thơ thường nhất quán với quan niệm về sản phẩm thơ. Coi trọng việc sống
thơ, Thanh Thảo cho rằng thơ là dòng sống thực của cá thể từ khoảnh khắc
sang khoảnh khắc. Một nhà thơ có
nhân cách, chỉ cần nắm bắt và thể hiện được những dòng sống thực đó của
mình, bản thân nó đã là thơ. Dù từ
khoảnh khắc này sang khoảnh khắc kia có thể rất bất chợt, bất định, có vẻ hỗn
loạn, nhưng mỗi khoảnh khắc ấy lại bật lên từ một gốc chung, xoay quanh một trục
chung là nhân cách người thơ. Do đó, đời sống thực của một nhân cách thơ cũng
có cấu trúc tựa hồ rubich. Chỉ cần thành thực phơi trải, tự nó đã là thơ thứ thiệt, thơ quí. Bởi nó là dạng thơ
khước từ mọi trang sức thỏn mỏn thường tình. Và Thanh Thảo đã bình tĩnh
đem đến cho thi đàn thứ thơ như thế.
Người ta đã nhận thấy thơ anh
là những dòng sống thực của chính tâm hồn anh. Một dòng sống đầy những đứt
nối, bất chợt rất gần với quan niệm của các nhà siêu thực: “âm thanh vỡ vụn mảnh
gương lấp lánh trong khuya / nước mắt
nhà thơ độc hành / những vệt sao thấm nhanh vào cát/ cát vang khô khốc”,”hãy
kêu tới đáy lòng Cao Bá Quát / bàn tay nhà thơ nắm chặt dòng sông / vung thành gươm trên cát bỏng”, “họ lấm láp sình lầy bước vào thơ Đồ Chiểu / họ để lại những vệt bùn làm
vinh dự cho thơ”, “những cây bàng chợt rùng mình cảm thấy / một khung trời
gãy gập của mùa đông”,”những con cá bơi cả vào giấc ngủ / những ngôi sao vàng
óng ánh tiếng cười”, “trên khuôn mặt
cày sâu những nếp nhăn nghèo đói / ta gặp lại niềm vui trong trẻo của nước mưa”
… Nhưng, vẻ “siêu thực” nọ không hẳn xuất phát từ lí thuyết, mà có lẽ từ sự trải
nghiệm thơ của bản thân anh nhiều hơn. Những vẻ đẹp sáng của thiên nhiên, của
con người cứ lấp lánh trong âm thầm, long lanh trong lặng lẽ rồi bất chợt bừng
lên vào khoảnh khắc nào đó, từng khoảnh khắc như thế cứ dệt nên dòng sống
thực của hồn thơ, dệt nên mỗi bài
thơ Thanh Thảo.
***
Một hồn thơ
như Thanh Thảo không thể không bén duyên với trường ca. Bởi dòng sống thế
kia chỉ thực sự thoải mái khi thả sức trong một hình thức phóng khoáng với một
cấu trúc luôn mở thôi. Mà trường ca
chính là một thể đầy hứa hẹn cho hình thức ấy, cấu trúc ấy. Quan niệm và
nhân cách thơ của Thanh Thảo đã
giúp anh thoải mái marathon với trường
ca, mặc sức "đi tới biển" cùng trường ca.
Về thể loại, sự
bùng nổ của trường ca có lẽ là hiện tượng đáng kể nhất của thơ Việt Nam từ nửa
sau thế kỉ XX đến giờ. Người ta đã đưa ra nhiều cách định nghĩa, định
danh khác nhau. Người bận tâm phân định nó với những anh hùng ca và sử thi thời
cổ. Người loay hoay khu biệt nó với
thơ dài, truyện thơ, khúc ngâm. Gặp gỡ có, bất đồng có. Thái độ với trường ca
cũng vậy: lắm người hoài nghi, khối người hài lòng, không hiếm người nghiện. Song, bất chấp những phân hóa,
chia rẽ, trường ca vẫn cứ trường ca, cả trong nước lẫn ngoài nước. Từ quan sát
của mình, tôi thấy khi thơ trữ
tình muốn trình bày những suy cảm về những vận động lớn lao, thậm chí kì
vĩ của đời sống bằng một hình thức lớn, khi ấy trường ca xuất hiện. Nói gọn hơn, khi thơ trữ tình
muốn chiếm lĩnh thực tại ở cấp độ cái kì vĩ thì trường ca bắt đầu lên tiếng. Các trường ca hiện đại
của ta manh nha từ thời Thơ Mới, lác đác trong cuộc chống Pháp, rộ lên suốt thời
chống Mỹ và bội thu sau chống Mỹ, chẳng phải là một bằng chứng sinh động hay
sao?
Không phải thi
sĩ nào cũng có thể là tác giả trường ca. Không ít người định dấn thân vào thể
này, sau đã bỏ cuộc. Người thì
đã lên những đề cương tỉ mỉ cho các bản đại trường ca, cuối cùng đề cương hoen
rỉ trong ngăn kéo. Người thì gắng kẽo kẹt cho hết một bản, rồi cạch đến già. Sự
ấy cũng thường tình. Trong điền
kinh, cùng môn chạy thôi, có người
vô địch cự li ngắn, nhưng chìm nghỉm khi marathon. Trong trận mạc, có người giỏi đoản binh mà bí trường trận. Có tạng
thơ chỉ sở trường ở những thể vừa vừa trung trung. Có tạng chỉ thực là nó ở những
thể nhỏ nhỏ xinh xinh. Hễ họ bén mảng sang thể lớn là lập tức hẫng chân, cụt
hơi. Ấy cũng là thường.
Do mấu chốt của
trường ca là ở chữ “trường”, nên một tác giả trường ca, theo tôi, ít nhất phải
có đủ “tam trường”: trường vốn, trường lực và trường hơi. Vốn trải nghiệm, vốn
tri thức, vốn nhân văn phải dồi dào; năng lực sáng tạo hình thức trong
ngôn ngữ phải sung mãn ; và phải nuôi được cảm hứng, cảm xúc thật bền, không đuối,
không hụt, không cụt. Tam trường đó phải hiện ra thành kiểu tư duy trường ca. Không phải ai cũng có tư duy này!
Người có tư duy trường ca thường phải xử lí thật biến hóa mối tương tác giữa những
cặp đối cực sống còn này: cái bi - cái hùng, cái kì ảo - cái tả thực,
cái kì vĩ - cái đời thường, tính hồn nhiên - tính tổ chức cao, cả đường bay - từng
nhịp vỗ cánh… Ở đây, tay nghề rất quan trọng. Nhưng khối người sành sỏi mọi
ngón nghề mà vẫn bại. Dường như hơn
cả chuyện tay nghề, là chuyện tạng thơ. Trong khi tạng thơ này vất vả đến bế tắc
trước những đòi hỏi phản trái đó, thì tạng thơ khác lại thoải mái tung hoành giữa những nguyên
tắc gò bó khắt khe kia. Với họ, trường ca cứ tuôn trào dễ dàng như thơ ngắn, thậm chí, còn dễ hơn thơ ngắn. Cứ thế, họ thành cây trường
ca, nhà trường ca. Tóm lại, kẻ viết phải có gốc trường ca mới mong thành cây
trường ca.
Thanh Thảo đã
trường ca ngay từ cái đầu tay. Chẳng
phải thế sao? “Thử nói về hạnh phúc” chào đời như một bài thơ ngắn, nhưng nó đã
tràn đầy hơi thở trường ca rồi. Những trải nghiệm chiến trường ác liệt, bề bộn
được soi chiếu, chưng cất bằng một tầm nhân văn cao, thể hiện trong những băn
khoăn về hạnh phúc và giá trị người
trước sự sống còn của đất nước, được phơi trải trong một hình thức mở của
thơ dài. Đó chẳng phải là những nhịp
thở hào sảng của trường ca đó ư ? Và chùm thơ kỉ lục gồm 13 bài được trình
làng trên Tác phẩm mới, cũng như tập
“Dấu chân qua trảng cỏ” tập hợp những bài thơ ngắn, về thực chất là những mảnh
vỡ khác nhau của một bản trường ca. Có thể xem chúng như là những tiền thân,
phân thân khác nhau của trường ca “Những người đi tới biển” được viết sau đó.
Nói vậy không phải cố vơ vào cho đầy một ôm, mà chính bởi chúng mang một hơi thở
chung, một phong độ sáng tạo chung, thuộc một kiểu tư duy chung với trường ca
này và với cả những trường ca sau này của Thanh Thảo như “Những nghĩa sĩ Cần
Giuộc”, “Trẻ con ở Sơn Mỹ”, “Bùng nổ của mùa xuân”, “Khối vuông rubich”, “Đêm
trên cát”, “Cỏ vẫn mọc”… và mới đây là “Metro”.
Tôi biết giới
nghiên cứu đã chỉ ra nhiều đặc sắc của thơ Thanh Thảo. Đã có không ít luận
văn cử nhân, thạc sĩ, luận án tiến sĩ ngữ văn đào sâu vào các bình diện khác
nhau của trường ca Thanh Thảo như tư
tưởng nhân dân, chất tự sự và chất trữ tình, yếu tố hiện thực và yếu tố
triết luận, hình tượng và biểu tượng,
ngôn ngữ và giọng điệu… Bản thân tôi cũng đã viết và hướng dẫn dăm ba cái. Nhưng đọc trường ca Thanh Thảo,
nét tâm đắc nhất với tôi vẫn là việc xử lí cặp đối cực này trong tư duy của
anh: tính hồn nhiên và tính tổ chức cao. Trong sáng tạo, hai gã này chúa
là xung khắc nhau, thậm chí vật lộn nhau. Liệu có cọc cạch mâu thuẫn gì không
nhỉ ?
Rõ ràng, một mặt Thanh Thảo xem thơ là dòng sống thực từ khoảnh khắc sang khoảnh
khắc, nghĩa là đề cao tính hồn nhiên gần như tuyệt đối của thơ. Mặt khác, anh lại được biết đến như một nhà cách tân hình
thức, không ngừng săn tìm những cấu trúc mới cho mỗi bản trường ca. Nghĩa là liên tục tìm tòi ứng dụng
và phát kiến những hình thái tổ chức tân kì cho thể loại, trong đó có cả những
dạng tổ chức rất phức tạp, rất gò bó. Trái khoáy. Vậy mà vẫn đâu vào đấy. Lạ.
Có lẽ, trong các tay bút duyên nợ với thể loại đồ sộ này,
Thanh Thảo là người coi trọng và dấn
thân vào cấu trúc nhiều hơn cả, thành hơn cả. Khước từ những hình thái tổ
chức quen thuộc của trường ca như
kéo dài thơ ngắn ra thành trường thi, gia tăng sử kiện để thành sử ca, bám riết
vào tự sự để thành truyện thơ, mượn hơi khan để thành khan đời mới, nương theo
sân khấu để thành hoạt cảnh thơ, kết những thi khúc rời thành tổ khúc thơ, xâu
các trường đoạn thành liên khúc thơ, pha trộn các thể mà thành một hỗn dung thể
thức v.v…, Thanh Thảo đã bứt hẳn sang những địa hạt khác để nhập về những
hình thái thật phá cách, như giao hưởng
(Những người đi tới biển, Bùng nổ của mùa xuân, Trẻ con ở Sơn Mỹ, Đêm trên
cát…), rubích (Khối vuông rubích), điện ảnh (Cỏ vẫn mọc), kịch (Trò chuyện
với nhân vật của mình), gần đây còn tìm sang cả… metro (Metro). Toàn những cấu
trúc lạ hoắc. Cứ y như một lối
“chơi” sáng tạo, “chơi” cấu trúc. Vậy
mà, đọc vẫn vào. Người đọc vừa bị cuốn theo dòng sống thực từ khoảnh khắc
sang khoảnh khắc của mạch thơ, vừa
có khoái thú vì đang được dạo trong những công trình kiến trúc lạ, được
thưởng ngoạn những cấu trúc tân kì. Nhờ đâu mà những phản trái lại hòa hợp được
vậy ? Nhạc trưởng Thanh Thảo đã dùng chiếc đũa chỉ huy nào? Tôi nghĩ rằng, chiếc đũa ấy chẳng thể là gì
khác hơn một năng lực mạnh mẽ ở anh:
năng lực phát giác sự hài hòa giữa cái hỗn loạn và cái trật tự.
Tìm kiếm trật tự cho cái hỗn loạn dường như là sở trường lớn của hồn thơ này. Trước hết
là trong tư tưởng. Thơ Thanh Thảo, nhất là chất thơ của sự lặng lẽ, chẳng phải
là vẻ đẹp của cái trật tự muôn đời giữa sự hỗn loạn đó sao? Chẳng phải toàn bộ
thơ anh, nhìn từ mỹ học, chính là mong cầu khôn nguôi về một trật tự
nhân văn trước cái loạn của thời chiến và cả cái loạn của thời bình nữa đó sao?
Mong cầu ấy cũng là một cái trục bí mật của khối rubich thơ Thanh Thảo vậy.
Nhưng thôi. Hãy
trở lại với chuyện hỗn loạn-trật tự riêng trong hình thức. Dòng sống thực vốn đầy
những bất định, bất chợt, ngẫu nhiên, ngẫu hứng, ngẫu cảm… là hỗn loạn. Còn những
hình thái cấu trúc lại là các dạng trật tự. Phóng túng trong trật tự, trật tự
mà phóng túng. Chúng hòa hợp bằng cách nào? Giải pháp của Thanh Thảo: dòng sống
thực luôn phải là hơi thở tràn trề
trong sinh thể trường ca, còn trật tự vừa là bộ khung sườn ẩn vừa là những đường viền linh hoạt. Dòng
sống thực (cảm xúc, ý tưởng, thi ảnh…)
thì vẫn phóng túng hồn nhiên, còn tổ chức vĩ mô (cấu trúc hình tượng, cấu trúc chương khúc, hệ thống chủ đề…)
trên toàn khối thì phải tuân thủ trật tự. Dường như đó cũng là dạng tổ chức phổ biến trong
nhiều hình thức của sự sống thì phải ? Hẳn có người sẽ nghi ngờ về tính tự nhiên, chân cảm trong lối
viết như vậy. Họ cho rằng cấu trúc gò bó thế dễ giết chết chân cảm hồn
nhiên, và “chơi” cấu trúc thế liệu
thơ có còn nghiêm túc? Họ quên rằng, nghệ thuật nghiêm túc nhất cũng ít
nhiều mang tính trò chơi. Lí thuyết
hiện đại chẳng nói vậy sao! Họ cũng quên rằng, trong âm nhạc chẳng hạn, còn
gì gò bó hơn cấu trúc chặt chẽ của một
bản giao hưởng ? Nhưng mỗi giao hưởng tuyệt tác vẫn cứ là dòng chảy tràn
trề hồn nhiên của cảm xúc âm nhạc đó thôi. Hồn nhiên mà có tổ chức, phóng túng
mà chặt chẽ, hỗn loạn mà trật tự, đó là thách thức muôn thuở của việc sáng tạo
cái đẹp. Dường như, nghệ thuật chính là việc đi trên những lằn ranh mỏng manh
giữa những điều phản trái đó ? Và tài năng chính là người xác lập được sự hòa hợp sống động cho
những đối cực đó. Khỏi nói những bản trường ca thành công đã được ghi nhận và
nghiên cứu nhiều của anh. Chỉ nói riêng cái vừa ráo mực chưa lâu và mang một dáng dấp hơi hậu hiện đại là
“Metro”. Nghĩa lí nào trong cấu trúc này ?
Metro là con tàu chạy ngầm trong lòng đất. Nội điều đó đã có ý
nghĩa khi nói về cái tâm thức Trường
Sơn vẫn ngầm chảy trong lòng cuộc sống bề bộn, hỗn tạp này rồi. Tuy
nhiên, cái đáng nói là, con tàu này có thể và luôn chạy được cả hai chiều trái
nhau. Chính tính trái nhau này đã hấp dẫn nhà cách tân. Bằng sự nhạy cảm của một
thi sĩ săn lùng hình thái tổ chức cho thơ, Thanh Thảo đã mượn nó
để tổ chức nên trường ca “Metro” với hai dòng chảy trái chiều trong nội
dung: dòng chảy tới của thời gian và dòng chảy ngược của kí ức. Đúng hơn là có hai dòng thời
gian: thời gian sống (với tâm tư,
thuộc quá khứ) và thời gian viết (với văn bản, thuộc hiện tại). Cả hai đan cài
nhau trong dòng sống thực từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc của tâm tư thi sĩ đang trầm mình trong những
kỉ niệm Trường Sơn với những trăn trở
về hạnh phúc, băn khoăn về giá trị sống qua việc duyệt lại những cái được cái mất
của dân tộc, của thế hệ và của cá nhân mình trong và sau cuộc chiến. Vì
thế, phức điệu mà rành rẽ, tán lạc mà mạch lạc, ngẫu hứng phóng túng mà vẫn
theo điệu theo bè. Nói khác đi, anh vẫn lập được trật tự cho sự hỗn loạn. Và đấy
chính là một hấp dẫn không nhỏ của bản trường ca này.
Tổ chức cao mà
vẫn hồn nhiên, hỗn loạn mà trật tự, kiểu hấp dẫn mang thương hiệu Thanh Thảo đó
đâu chỉ ở trường ca này và đâu chỉ riêng ở trường ca !
***
Người đọc đã
“phong vương” cho nhiều cây bút xứng
đáng. Đã có Xuân Diệu vua Thơ
Mới, Vũ Trọng Phụng vua phóng sự, Nguyễn Tuân vua tùy bút, Thạch Lam vua truyện
ngắn trữ tình, v.v… Ở triều đại sau, bên cạnh những “vì vua” khác, như Nguyễn Duy vua lục bát, Nguyễn Huy Thiệp
vua truyện ngắn, Lưu Quang Vũ vua kịch nói, vv… cũng có thể gọi Thanh Thảo là
vua trường ca chứ sao ! Việc phong tặng cho một ai đó, đâu chỉ bằng vào việc
người ấy chuyên chú hay viết được nhiều, mà quan trọng hơn cả là ở thành tựu
thuộc về hàng đầu của họ.
Ném mình
vào thể này mấy chục năm trời bền bỉ, quyết liệt, đến nay, gia tài trường ca của Thanh Thảo, nếu tính chi li,
phải vượt con số chục bản. Con số ấy ở một thể loại như trường ca là chưa đồ sộ
sao! Anh chỉ tuyển vào đây chín trường ca ưng ý nhất. Có lẽ, thế là đẹp.
Đó có phải là chín nhánh cửu long của cùng một con sông trường ca Thanh Thảo không ? Có phải là chín bậc
thang anh đã lần lượt bước
qua để lên đài không ? Có phải là chín chiếc đỉnh bày trên sân chầu của nghiệp
thơ anh không ? Mọi ẩn dụ có thể tới cũng có thể không. Nhưng có điều chắc: đó
là chín thi phẩm đầy tâm huyết của một đời sáng tạo mà đứa con thi sĩ đã
chọn ra như biện một mâm lễ vật
thành kính dâng lên Thầy Má mình, Nhân Dân mình. Lời đề đầu tuyển tập đã
nói cùng ta điều đó.
Cách làm tuyển thế, khiến tôi nghĩ tới chàng Lang Liêu xưa.
Văn Chỉ - Làng
quốc tế Thăng Long,
Mùa Hè Kỉ Sửu
CHU VĂN SƠN
Nguồn: NVTPHCM
_________
[1] Văn học trong giai đoạn cách mạng mới, NXB Tác phẩm mới, 1984, tr. 216-218