Nhà thơ Basho
Lần đầu tiên thơ hai-cư được đưa vào chương trình sách
giáo khoa Ngữ văn lớp 10 ở nhà trường phổ thông nước ta với một số bài thơ tiêu
biểu của nhà thơ Ba-sô. Mặc dù nằm ở phần đọc thêm nhưng sách giáo khoa và sách
giáo viên đã có một hệ thống câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu bài khá rõ ràng. Tuy
nhiên, người viết bài này qua bước đầu tìm hiểu cũng có một cách hiểu, một vài
điều muốn trao đổi cùng quý đồng nghiệp gần xa. Cũng cần nói thêm, người viết
không có tham vọng trình bày như một bài soạn giảng mà chỉ chú trọng đến một số
đặc điểm nghệ thuật của các tác phẩm như một nét chấm phá đơn sơ, mong rằng sẽ
nhận được nhiều góp ý đáng kể. Ngoài những ý chính về nghệ thuật được các soạn
giả trình bày trong sách giáo viên như: thủ pháp tượng trưng, chất triết lí, cảm
thức thẩm mỹ, ngôn ngữ; thơ hai-cư còn có những đặc điểm nghệ thuật nổi bậc
sau.
1. Ở hầu hết 8 bài thơ in trong sách giáo khoa, bước đầu
tìm hiểu sơ bộ ta thấy lộ lên một số điểm chung, mà tiêu biểu là nghệ thuật sử
dụng thủ pháp tương phản, đối lập giữa các cặp phạm trù: vũ trụ - con người, vô
hạn - hữu hạn, không gian - thời gian, hữu hình - vô hình, có - không, đen - trắng,
tĩnh - động, tối - sáng, nhất thời - vĩnh hằng... Chính sự tương phản đối lập
đó nhà thơ đã làm nổi bậc một cách cụ thể những vấn đề được nói đến trong thơ,
và đây cũng chính là một cách giải mã khám phá bài thơ theo một hướng thi pháp
riêng.
Từ một cuộc hành trình trở về quê hương sau mười năm xa
cách, cảm nhận chính nỗi lòng mình với quê hương, về những điều được mất trong
cuộc đời, nhà thơ Ba-sô viết:
Đất khách mười mùa
sương
về thăm quê ngoảnh
lại
Ê-đô là cố hương. (1)
Bằng trải nghiệm cũng như cảm nhận trong cuộc đời ở khoảng
thời gian mười năm xa quê, nhà thơ khắc họa trước mắt chúng ta hai vùng đất
khác nhau, hai khoảng không gian, thời gian xa vời; đất khách và quê hương, xưa
và nay. Trước cái vô hạn của không gian thời gian ta bắt gặp cái hữu hạn trong
cuộc sống con người khi tuổi mỗi ngày một qua đi, sự gắn bó với quê hương mỗi
ngày một ngắn lại, từ đó nhà thơ cảm thấy yêu cuộc sống này hơn và "ngộ"
ra một điều đâu cũng là quê hương. Ê-đô là cố hương. Như vậy trước cái hữu hình
rộng lớn, nhà thơ biến thành cái vô hình nhỏ bé trong lòng tự mình biết để cảm
nhận và diễn tả trải dài tình cảm nỗi niềm của mình đối với quê hương và đất nước.
Bài thơ ngắn gọn còn là một triết lí sâu sắc trong quy luật tình cảm của con
người với bất cứ nơi đâu khi bước chân mình đã qua, dù ngắn hay dài thì chuỗi
thời gian ấy khó vơi trong mỗi chúng ta, một lúc nào đó chợt nhớ mình lại cảm
thấy day dứt xót xa như còn mang một món nợ lớn trong đời.
Một lần ngang qua cách rừng, nghe tiếng vượn hú não nề,
nhà thơ nghĩ đến tiếng khóc của những em bé bị bỏ rơi trong khu rừng, ông viết:
Tiếng vượn hú não nề
hay tiếng trẻ bị bỏ
rơi than khóc
gió mùa thu tái tê.
(4)
Bài thơ được cảm nhận bắt đầu từ giác quan thính giác. Tai
nghe tiếng vượn hú rồi nhà thơ liên tưởng đến một điều có tính chất bức thiết
trong cuộc sống con người (hay tiếng trẻ bị bỏ rơi). Đây không phải là sự chuyển
đổi giữa nghe và nghĩ mà là một sự chuyển động giữa động và tĩnh: âm thanh bên
ngoài, tiếng lòng sâu lắng của nhà thơ. Hai chi tiết tiếng vượn hú và tiếng trẻ
bị bỏ rơi giữa cơn gió mùa thu tạo cho người đọc cảm nhận được một bức tranh
trong bài thơ vừa thật vừa ảo. Cái ảo là khoảng âm thanh không rõ ràng trong nhất
thời, cái thực là chính là tiếng lòng của con người với thời cuộc nhân sinh tồn
tại vĩnh hằng trong cuộc đời vốn có nhiều điều chưa nói hết. Bài thơ giản dị
trong sáng nhưng ý nghiã tư tưởng lại vượt ra ngoài lớp vỏ ngôn từ chật hẹp gò
bó khô khan.
Một lần khi mùa xuân đến, cảm nhận cánh hoa đào rơi lả tả
bên hồ Bi-oa, nhà thơ viết.
Từ bốn phương trời xa
cánh hoa đào lả tả
gợn sóng hồ Bi-oa. (6)
Bút pháp trong bài thơ thể hiện trước hết là ở sự tương
phản đôí lập giữa không gian vũ trụ bao la (bốn phương trời xa) với những cái
gì nhỏ bé hạn hữu trong đời sống thường ngày (cánh hoa rơi, mặt hồ gợn sóng).
Nghệ thuật bài thơ còn thể hiện ở bút pháp động và tĩnh, giữa sáng tối, không
gian và thời gian, thiên nhiên và con người... Người đọc cảm nhận một bức tranh
non nước thiên nhiên hữu tình tinh tế có pha chút thiền tông phật giáo. Bài thơ
còn thể hiện một triết lí tương giao giữa sự vật hiện tượng với vũ trụ làm cho
hồn thơ nhẹ nhàng bay bổng lay tận chiều sâu trái tim người đọc.
Có thể dẫn một bài thơ hai-cư khác của Ba-sô cũng tương tự.
Trên cành khô
cánh quạ đậu
đêm thu.
Cả ba sự vật: con quạ, cành cây khô, đêm thu đã có sự đối
lập tạo nên một khung cảnh thật ảm đạm. Con quạ đậu trên cành cây khô trụi lá
vào đêm thu đã cuốn hút con người vào cõi mông lung tàn tạ. Mặt khác bài thơ
không chỉ là nỗi buồn mà còn là sự tương phản giữa màu đen con quạ nhỏ xíu và
màng đêm bao la hiu quạnh, con người cảm thấy nhỏ bé trước không gian rộng lớn
bao la...
2. Thơ hai-cư chỉ là những nét chấm phá đơn giản, mạch
logic của bài thơ có nhiều khoảng trống tạo sự liên tưởng cảm nhận ở người đọc.
Chất liệu và đối tượng được đề cập trong thơ cũng không có gì cao xa lạ lẫm mà
chỉ bình thường như: thiên nhiên con người, trăng tuyết hoa chim vượn khỉ, còn
có cả bùn đất cỏ cây... Khi nghe tiếng chim đỗ quyên nhà thơ giật mình:
Chim đỗ quyên hót
ở kinh đô
mà nhớ kinh đô (2)
Tiếng chim là tín hiệu gợi nhớ của lòng người trong thơ
ca từ xưa đến nay. Cũng thế, Ba-sô một lần nghe tiếng chim để rồi khoảng trống
trong lòng lại ùa về như một kí ức day dứt khó quên. Điều dễ nói cũng là điều
khó nói, thế mà nhà thơ đã thốt thành lời. ở đây ý thơ chưa diễn đạt hết mọi
cung bậc đến tận chiều sâu tâm hồn nhưng khoảng lặng đã làm cho lòng ta tự hỏi
tiếng chim hay tiếng lòng của nhà thơ? Chủ thể trữ tình bị xóa nhòa, ranh giới
giữa quê hương và con người được bắt cầu bằng tiếng chim đỗ quyên trong mùa hè,
dưới chiếc cầu đó là dòng sông lòng cuồn cuộn chở bao nhiêu phù sa bồi đắp cho
quê hương.
Từ chất liệu đơn giản, ý thơ bộc phát, sự liên tưởng của
nhà thơ có tính chất nhân văn hướng về đồng loại cộng đồng dân tộc hay những vấn
đề lớn lao trong tư tưởng tình cảm của con người.
Mưa đông giăng đầy
trời
chú khỉ con thầm ước
có một chiếc áo
tơi. (5)
Rõ ràng ước muốn của chú khỉ trong bài thơ hoàn toàn do
chủ quan nhà thơ nghĩ giúp. Dó là sự tưởng tượng khi đang nhìn thấy chú khỉ ngồi
ướt nhem bên vệ rừng khi nhà thơ đi qua. Chú khỉ đơn độc cũng là hình ảnh của
người nông dân, những trẻ em Nhật trong cơn mưa đông lạnh lẽo. Nốt lặng của bài
thơ được thể hiện qua những hình ảnh đơn sơ mộc mạc, là tấm lòng của con người
với những sinh vật bé nhỏ tội nghiệp và đó cũng chính là lòng yêu thương đối với
những người nghèo khổ.
3. Trong thơ hai-cư ngoài một số bài có những cụm từ quý
ngữ (từ chỉ mùa) cụ thể như hoa đào-mùa xuân, tiếng ve-mùa hè... còn có nhiều
bài không có. Những bài này chỉ có một số từ ngữ gợi mùa như: mù sương trong
bài số 1 gợi mùa thu, chim đỗ quyên trong bài số 2 gợi nhớ mùa hè, cánh đồng
hoang vu bài 8 gợi nhớ mùa đông... Nhận xét về thơ hai-cư Nhật Bản, nhà thơ
Tagor (Ấn Độ) cho rằng, trong thơ hai-cư "nhà thơ chỉ giới thiệu đề tài rồi
bước nhanh sang một bên". Như vậy những từ này có khi được coi là đề tài,
là điểm sáng, "là con mắt" để khám phá nội dung và nghệ thuật của bài
thơ. Chỉ vài nét chấm phá thời gian, người đọc có thể nắm bắt đề tài, tạo sự
liên tưởng một cách dễ dàng.
Vắng lặng u trầm
thấm sâu vào đá
tiếng ve ngâm. (7)
Tiếng ve ngâm là mùa hè, tiếng ve ngâm lại thường diễn ra
vào buổi chiều nên ta dễ dàng nhận ra nội dung của bài thơ là tiếng ve im ắng cất
lên trước cảnh đá vật nơi cửa thiền trong một buổi chiều chưa tắt nắng gợi cho
con người một nỗi lòng u tịch mênh mông, lúc đó con người có thể ngộ ra một điều
gì trong cuộc sống cho riêng mình. Nghệ thuật của bài thơ là sức gợi, là tính
liên tưởng, là phương pháp suy luận. Nghệ thuật bài thơ cũng là tiếng nói, là nỗi
lòng, là tâm tư tình cảm con người gửi gắm với công chúng yêu thơ hôn nay và
mai sau...
Giải mã và tìm hiểu thơ hai-cư , một thể thơ nổi tiếng
trong thơ ca Nhật Bản và thế giới là một điều vốn rất khó. Trên đây chỉ là những
nét chấm phá có tính chất chủ quan của người viết đối với những bài thơ hai-cư
trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10. Đây cũng chỉ mới là bước tìm hiểu ban đầu,
có lẽ còn nhiều điều chưa thỏa đáng, mong rằng quý thầy cô, quý đồng nghiệp sẽ
có tiếng nói sâu hơn, góp phần đưa thể thơ này đến với người đọc một cách thật
gần gũi.
ĐÀO TẤN TRỰC
Nguồn: Tạp chí Thơ