Nhà văn Nguyễn Quang Sáng còn có bút danh Nguyễn Sáng,
sinh ngày 12 tháng 01 năm 1932, tại xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An
Giang. Từ tháng 4 năm 1946, ông xung phong vào bộ đội, làm liên lạc viên
cho đơn vị Liên Chi 2. Đến năm 1948 được bộ đội cho đi học thêm văn hoá ở Trường
trung học kháng chiến Nguyễn Văn Tố. Năm 1950, về công tác tại phòng chính trị
Bộ Tư lệnh phân khu miền Tây Nam Bộ, làm cán bộ nghiên cứu tôn giáo (chủ yếu là
Phật giáo và Hoà Hảo).
Năm 1955, ông theo (đơn vị tập kết ra Bắc, chuyển ngành với
cấp bậc chuẩn úy, về làm cán bộ Phòng Văn nghệ Đài Phát thanh tiếng nói Việt
Nam. Từ năm 1958, công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam, làm biên tập viên tuần báo
Văn nghệ biên tập nhà xuất bản Văn học, cán bộ sáng tác. Năm 1966, ông vào
chiến trường miền Nam, làm cán bộ sáng tác của Hội Văn nghệ Giải phóng. Năm
1972, trở ra Hà Nội, tiếp tục làm việc ở Hội Nhà văn.
Sau ngày đất nước thống nhất tháng 4.1975, ông về Thành phố Hồ Chí Minh, giữ chức Tổng thư ký (về sau đổi tên gọi thành Chủ tịch) Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh các khoá l, 2, 3.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957; Uỷ viên Ban Chấp hành Hội khoá 2, 3 và là Phó tổng thư ký Hội khoá 4.
Ông mất tại
nhà riêng ở quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh vào lúc 17 giờ ngày 13 tháng 2 năm 2014, hưởng thọ 82 tuổi.
Tác phẩm đã xuất bản:
* Văn xuôi:
- Con chim vàng (truyện ngắn, 1957);
- Người quê hương (truyện ngắn, 1958);
- Nhật ký người ở lại (tiểu thuyết, 1962 );
- Đất lửa (tiểu thuyết, 1963);
- Câu chuyện bên trận dịa pháo (truyện vừa, 1966);
- Chiếc lược ngà (truyện ngắn, 1968);
- Bông cẩm thạch (truyện ngắn 1969);
- Cái áo thằng hình rơm (truyện vừa, 1975);
- Mùa gió chướng (tiểu thuyết, 1975);
- Người con đi xa (truyện ngắn, 1977);
- Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết, 1985);
- Bàn thờ tổ của một cô đào (truyện ngắn, 1985);
- Tôi thích làm vua (truyện ngắn, 1988);
- 25 truyện ngắn (1990);
- Paris - tiếng hát Trịnh Công Sơn (ký, 1990);
- Con mèo Fujita (truyện ngắn - 1991).
* Kịch bản phim:
- Mùa gió chướng (1977);
- Cánh đồng hoang (1978),
- Pho tượng (1981);
- Cho dến bao giờ (1982);
- Mùa nước nổi (1986);
- Dòng sông hát (1988);
- Câu nói dối đầu tiên (1988);
- Thời thơ ấu (1995);
- Giữa dòng (1995);
- Như một huyền thoại (1995).
Giải thưởng văn học:
- Ông Năm Hạng - truyện ngắn giải thưởng
cuộc thi truyện ngắn báo Thống Nhất (1959);
- Tư Quắn - truyện ngắn, giải thưởng cuộc thi truyện ngắn tạp chí Văn Nghệ Quân Đội (1959);
- Dòng sông thơ ấu - giải thưởng Hội đồng Văn học thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam (1985);
- Con mèo của Fujita - tập truyện ngắn, giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1994;
- Cánh đồng hoang (kịch bản phim)- bộ phim được tặng Huy chương vàng Liên hoan Phim toàn quốc (1980), Huy chương vàng Liên hoan Phim quốc tế ở Moskva (1981);
- Mùa gió chướng (kịch bản phim)- Huy chương bạc Liên hoan Phim toàn quốc (1980)
- Tư Quắn - truyện ngắn, giải thưởng cuộc thi truyện ngắn tạp chí Văn Nghệ Quân Đội (1959);
- Dòng sông thơ ấu - giải thưởng Hội đồng Văn học thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam (1985);
- Con mèo của Fujita - tập truyện ngắn, giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1994;
- Cánh đồng hoang (kịch bản phim)- bộ phim được tặng Huy chương vàng Liên hoan Phim toàn quốc (1980), Huy chương vàng Liên hoan Phim quốc tế ở Moskva (1981);
- Mùa gió chướng (kịch bản phim)- Huy chương bạc Liên hoan Phim toàn quốc (1980)
- Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt II
năm 2001.
Quan niệm văn học:
- Có những nhà văn, quê mình không có núi, không có biển.
"Đi nơi này lại nhớ nơi kia", nhờ đi nhờ nhớ vẫn có tác phẩm về biển,
về sông và núi. Lòng luôn xao động, ngọn lửa sáng tạo luôn luôn âm ỉ trong lòng
mình.
Theo NVTPHCM
Nhà văn Nguyễn
Quang Sáng
Nhà văn Nguyễn
Quang Sáng và các con