Nhìn lại bước đi
và thành tựu của văn học Quốc ngữ Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX,
quả thật khó ai quên được Nguyễn Chánh Sắt. Ông là một trong những cây bút văn
xuôi tiêu biểu nhất hồi đó, có đóng góp đáng kể vào việc nối liền hai bờ văn học
cổ điển và văn học hiện đại ở Việt Nam.
Nhà văn Nguyễn Chánh Sắt
Nguyễn Chánh Sắt sinh năm 1869, tự là Bá Nghiêm, hiệu là
Tân Châu, bút hiệu là Du Nhiên Tử, Vĩnh An Hà. Các danh xưng này ít nhiều có
liên hệ đến quê quán, tính cách của ông. Xuất thân từ một gia đình nông dân
nghèo ở làng Long Phú, huyện Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc thị trấn Tân
Châu, huyện Phú Châu, tỉnh An Giang), lúc nhỏ ông được ông Nguyễn Văn Bửu là người
khá giả trong làng nhận làm con nuôi và cho học chữ Hán với tú tài Trần Hữu Tường.
Mấy năm sau ông học tiếp ở trường tiểu học Việt Pháp Châu Đốc.
Sau khi đỗ bằng Tiểu học (lúc đó gọi là bằng Sơ học), ông
được cha nuôi cưới vợ là bà Văng Thị Yên, người cùng thôn, làm nghề buôn bán ở
chợ Tân Châu. Ông ở nhà trông nom việc gia đình và tự học thêm Hán văn và Pháp
văn. Trong thời gian này, ông quen với De Colbert- một sĩ quan Pháp có cơ sở
dâu tằm tại Tân Châu. Được ít lâu, chính quyền thuộc địa đề cử De Colbert làm
giám đốc đề lao Côn Lôn (Côn Đảo). Nguyễn Chánh Sắt theo Colbert ra Côn Lôn làm
thông ngôn. Chuyến đi chắc không vì tham vọng thời thượng làm “thầy thông, thầy
ký”, cũng không hẳn vì sinh kế, lập nghiệp mà có lẽ vì sở thích “du nhiên” những
vùng đất lạ của ông. Hoàn cảnh dun rủi, ở đó ông có dịp gần gũi, học tập các
nhà nho ái quốc đang bị lưu đày. Chữ Hán ông được nâng cao thì mầm yêu nước
trong ông chắc cũng được khơi dậy.
Khi De Colbert chết, Nguyễn Chánh Sắt trở về đất liền. Vì
hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, ông phải xin làm công chức ở Sở Canh nông,
Công chánh, Địa chánh. Công việc không thích hợp, ông xin nghỉ để lên Sài Gòn dạy
Hán văn ở trường Trung học Taberd và vài trường khác.
Khoảng năm 1896, ông giúp việc cho Canavaggio - một chủ
báo người Pháp rất có thế lực - và được giao phó cai quản ruộng muối ở Bạc
Liêu. Bốn năm sau, ông trở về Sài Gòn và bắt đầu cộng tác với Nông cổ mín đàm -
tờ báo được coi là có khuynh hướng tiến bộ lúc bấy giờ - bằng các dịch phẩm
truyện Tàu.
Đến năm 1906, ông vừa làm chủ bút Lục tỉnh tân văn vừa
tham gia hoạt động với Trần Chánh Chiếu (1867- 1919) . Đó là một nhân vật nổi
tiếng:
“Quốc tịch mang
danh Phú Lãng (Pháp)
Thâm tâm vẫn máu họ
Hùng Vương”
Nhờ mang danh con dân “mẫu quốc”, Trần Chánh Chiếu có điều
kiện sở hữu nhiều cơ sở kinh doanh và làm chủ bút một tờ báo lớn, nhưng ông vẫn
nung nấu ý thức tự cường, tinh thần dân tộc. Trần Chánh Chiếu dồn hết gia sản,
sự nghiệp vào các hoạt động yêu nước, trở thành người có công lớn trong cuộc vận
động Duy Tân ở Nam Kỳ. Là đồng sự, đồng chí với một người như thế, lẽ nào Nguyễn
Chánh Sắt dửng dưng trước lợi quyền của đất nước, dân tộc? Cho nên, ông hăng
hái làm việc trong Nam Kỳ kỹ nghệ công ty, sản xuất xà bông hiệu “Con vịt”
(Carnard), rồi xuống Mỹ Tho lập khách sạn, tiệm cơm, bán rượu tây. Những cơ sở
này ngoài việc dốc sức kinh doanh để tranh đoạt quyền lợi với nước ngoài theo
chủ trương “Minh Tân” và làm kinh tài cho phong trào, còn là nơi tụ họp đồng
chí để che mắt chính quyền thực dân. Xà bông do công ty ông sản xuất cạnh tranh
rất hiệu quả với xà bông ngoại quốc, đồng thời Nam Trung khách sạn do ông mở
cũng làm ăn khá phát đạt.
Đến cuối tháng 10 năm 1908, phong trào Đông Du bị đổ bể,
Trần Chánh Chiếu và hơn 90 người khác bị bắt còn Nguyễn Chánh Sắt may mắn thoát
được. Ông trở về Sài Gòn và được Canavaggio mời làm chủ bút Nông cổ mín đàm. Được mấy năm, ông lại
quay xuống Bạc Liêu làm ruộng. Khoảng năm 1915-1916, ông về Sài Gòn lần nữa và
tiếp tục làm chủ bút Nông cổ mín đàm.
Khi Canavaggio chết (1922), ông kiêm luôn chức chủ nhiệm của tờ báo này. Ngoài
việc trông nom bài vở cho tờ báo, Nguyễn Chánh Sắt còn sáng tác nhiều tiểu thuyết
và truyện ngắn.
Năm 1920, nhân
về thăm quê nhà, ông được công cử chức Hương quan trong Ban quản trị đình xã
Long Phú. Có lần ông còn được cử làm phụ thẩm toà Đại hình ở Sài Gòn. Khi tuổi
già, ông về sống ẩn dật ở Tân Châu và qua đời ở đó vào ngày 6.6.1947.
Cuộc đời 78
năm của Nguyễn Chánh Sắt nằm trọn trong giai đoạn lịch sử bi hùng của vùng đất
Nam Kỳ lục tỉnh. Ông sinh ra thì Nam Kỳ đã rơi vào tay thực dân Pháp và khi ông tạ thế là lúc
nhân dân ở đây đang căng mình, dồn sức ngăn giặc tái xâm lăng. Đó là
giai đoạn cam go thử thách đối với bản lĩnh của dân tộc, khí phách của người
dân Nam Kỳ và nhân cách của tầng lớp trí thức. Nguyễn Chánh Sắt là một trí thức
từng trải, đi nhiều nơi, làm nhiều nghề, cộng tác với nhiều người. Tuy chưa cầm vũ khí đứng lên chống giặc nhưng
ông cũng chưa bao giờ cam tâm làm tay sai, làm nô lệ cho bọn thực dân. Ông có
làm việc với vài cơ quan và cá nhân của Pháp nhưng chưa có tài liệu nào chứng tỏ
ông một lòng một dạ phục vụ cho quan thầy hay quay lưng chống lại các phong trào yêu nước, tiến bộ.
Hơn nữa, với những hoạt động kinh tế xã hội trong Nam Kỳ kỹ nghệ công ty
và những hoạt động báo chí, văn học trên Nôâng cổ mín đàm cũng đủ để cho ông có
được một chỗ đứng trong lịch sử.
II
Về hoạt động văn học, Nguyễn Chánh Sắt không có được vị
trí tiền phong- khai mở nền văn học mới như Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Nguyễn
Trọng Quản (1865-1911) cũng chưa gặt hái được vinh quang như Hồ Biểu Chánh
(1885- 1958), nhưng ông luôn là người
xuất hiện ở tâm điểm của các phong trào văn học sôi động trong 3 thập niên đầu
thế kỷ XX: phong trào dịch truyện Tàu ở thập niên thứ nhất và phong trào sáng
tác “kim thời tiểu thuyết” ở hai thập niên sau. Đó cũng là hai mắc xích quan trọng
của tiến trình hiện đại hóa văn xuôi Quốc ngữ Nam Bộ.
Từ cuối thế kỷ XIX
đã có một số tác phẩm Trung Hoa được dịch ra Quốc ngữ La tinh. Nhưng phải kể đến
ngày 11.8.2001, trên số đầu tiên Nôâng cổ mín đàm cho đăng
truyện dịch Tam quốc diễn nghĩa thì phong trào dịch truyện Tàu
ở Nam Bộ mới thực sự mở màn và ngày càng thu hút nhiều cây bút tham gia như Trần
Phong Sắc, Nguyễn An Khương, Trần Hữu Quang, Huỳnh Hữu Trí… Nguyễn Chánh Sắt
nhanh chóng trở thành nhân vật nổi bật của phong trào. Dịch phẩm đầu tiên của
ông là truyện Tây Hớn(1901) do nhà xuất bản J. Nguyễn Văn Viết ấn
hành. Sách bán rất chạy nên ông tiếp tục dịch truyện Đông Hớn và
tự xuất bản. Tính đến năm 1910, Nguyễn Chánh Sắt đã dịch được hơn chục truyện
Trung Hoa: Nhạc Phi (1905), Ngũ hổ bình Tây (1906), Thuyết
Đường diễn nghĩa (1908), Chung Vô Diệm (1909), Kim
cổ kỳ quan (1910), Càn Long du Giang Nam, Anh hùng náo Tam môn
giai, Mạnh Lệ Quân, Thập nhị quả phụ...
Truyện dịch của
Nguyễn Chánh Sắt thiên về loại có cốt truyện hành động, phiêu lưu, nội dung phù hợp với quan niệm đạo đức
“khuyến thiện trừng ác” của dân gian, viết theo lối văn xuôi giống như lời nói
thường ngày nên rất gần gũi và hấp dẫn đối với công chúng. Người đương thời coi
Nguyễn Chánh Sắt và Nguyễn An Khương là hai dịch giả đặc sắc nhất. Nguyễn Liên
Phong viết trong Nam Kỳ phong tục nhơn vật
diễn ca (1909):
“Truyện thơ hay dịch liền liền
An Khương, Chánh Sắt rõi truyền thêm hay”
Còn Ngươn Long
trong bài “Xem truyện của Nguyễn Chánh Sắt
ta nhận thấy điều gì?”
cũng khen ngợi văn dịch của ông: “Tác giả đã từng dụng ngòi viết mà dịch thuật
ra nhiều bộ truyện Tàu mà đến nay khắp nơi cũng vẫn còn hoan nghinh (. . .)
Lối văn dịch của tác giả rất giản dị (...) Lối văn ấy rất
thích hạp với các vị ham đọc truyện Tàu và tất cả mọi người đều xem qua hiểu được rành rẽ”.
Dịch phẩm truyện
Tàu của Nguyễn Chánh Sắt cũng như của nhiều người khác còn có tác dụng
tích cực trong việc truyền bá chữ Quốc ngữ, chuẩn bị điều kiện xây dựng nền tảng
cho nền văn học mới.
Về sau phong trào dịch và xuất bản truyện Tàu tràn lan,
chạy theo thị hiếu người đọc, sa dần
vào những chuyện mê tín dị đoan, hoang đường ma quái đã gây sự phản ứng
ngược lại đối với việc dịch truyện
Tàu. Chính phản ứng này là động cơ thúc đẩy phong trào sáng tác truyện văn xuôi
Quốc ngữ mà thời ấy mệnh danh là “kim thời tiểu thuyết”.
Thực ra loại “kim thời tiểu thuyết” đã được xác lập từ Truyện
thầy Lazaro Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản. Nhưng đây là” một con
chim lạ từ phương Tây đáp xuống một vùng đất còn vắng bóng đồng loại. Bởi lẽ
đó, nó mới nổi lên như một ốc đảo chơi vơi sau thế kỷ XIX không riêng ở Nam Kỳ
mà ở cả Việt Nam “ [4;303]. Phải đợi đến hơn 20 năm sau, khi Phan Yên
ngoại sử (Tiết phụ gian truân, 1910) của Trương Duy Toản, Hoàng
Tố Anh hàm oan (1910) của Trần Thiên Trung ( Trần Chánh Chiếu) ra đời
thì tiểu thuyết Quốc ngữ mới phát triển. Là người nhạy bén, Nguyễn Chánh Sắt
cũng bắt đầu bước sang địa hạt sáng tác tiểu thuyết. Tác phẩm đầu tiên của ông
là cuốn Trinh hiệp lưỡng nữ (gia đình tiểu thuyết, 1915) đã được
độc giả Nam Kỳ rất hâm mộ. Từ đó ông nổi danh như một cây bút tiểu thuyết sung
sức và đa dạng trong những năm 1915- 1930 với gần chục tác phẩm thuộc nhiều thể
tài khác nhau: Nghĩa hiệp kỳ duyên (gia đình tiểu thuyết,
1920); Gái trả thù cha (trinh thám tiểu thuyết, 1920); Một
đôi hiệp khách (nghĩa hiệp tiểu thuyết, 1920); Tình đời ấm lạnh (tâm
lý tiểu thuyết, 1922); Lòng người ham hiểm (xã hội tiểu thuyết,
1925); Man hoang (kiếm hiệp tiểu thuyết, 1925); Tài mạng
tương đố (tâm lý tiểu thuyết, 1926); Giang hồ nữ hiệp (võ
hiệp tiểu thuyết, 1928); Việt Nam Lê Thái Tổ (dã sử tiểu thuyết,
1929); Tiểu hồng bào hải thoại (truyện, 1930). . .
Nhìn chung ở
Nguyễn Chánh Sắt gần như hội
tụ được những phẩm chất của một kiểu người làm văn học tiêu biểu hồi đầu thế kỷ
XX ở Nam Bộ: rành tiếng Pháp, giỏi Hán văn, thông thạo Quốc ngữ; vừa là nhà
báo, nhà dịch thuật vừa là nhà sáng tác; linh hoạt và xông xáo; kịp thời đón bắt
những đổi thay của đời sống xã hội và thị hiếu công chúng, góp phần làm
nên diện mạo và chất lượng mới cho
văn học.
III
Căn cứ vào số
lượng và tên gọi tác phẩm dễ dẫn đến nhận định rằng Nguyễn Chánh Sắt là cây bút
đa dạng, thể nghiệm trên nhiều thể loại, thể tài văn xuôi. Nhận định ấy không
phải không có lý.
Văn xuôi Quốc ngữ Nam Bộ đi từ dịch thuật đến sáng tác, từ
chỗ chịu ảnh hưởng của văn học Trung Hoa đến chỗ chịu ảnh hưởng của văn học
phương Tây, chủ yếu là văn học Pháp, từ truyện chí đến tiểu thuyết. Sáng tác của
Nguyễn Chánh Sắt cũng không vượt ra ngoài lộ trình ấy. Có thể xếp các cuốn Man hoang, Việt Nam Lê Thái Tổ vào loại
truyện chí - loại tác phẩm viết theo lối tiểu thuyết chương hồi trong văn học trung đại Trung Hoa và Việt
Nam như Tam Quốc chí, Hoàng Lê nhất thống
chí. Tác phẩm được chia làm nhiều hồi, đầu mỗi hồi có một câu biền ngẫu giới
thiệu nội dung, sự kiện chính. Loại truyện này có xu hướng đi vào các đề tài dã
sử, lịch sử , kiếm hiệp. Cuốn Man hoang dài hơn 400 trang, kể về 12 anh hùng hảo hớn ở vùng Vân Nam, mỗi người một cảnh
ngộ nhưng đều hành hiệp trượng nghĩa, diệt ác trừ gian, cứu nhân độ thế, sau
này “lấy theo niên kỷ mà phân biệt ngôi thứ (...) kết bạn sanh tử có nhau (…) bõ
lúc long đong, sum vầy một cửa”. Truyện gồm 40 hồi, mở đầu bằng sự kiện: “Báo
oan cừu, dân Miêu sanh dị chí; Đoạt bửu kiếm, đại hiệp trổ tài năng” và kết
thúc ở chỗ: “Thi xảo kế, lũ cướp thọ
hình; Tế vong linh, chồng vợ đoàn viên”. Câu chuyện hoàn toàn hư cấu mà hấp dẫn, dễ gợi nhớ đến kiệt tác
Thuỷ Hử truyện của Thi Nại Am. Cuốn Việt Nam Lê Thái Tổ kể lại công cuộc dựng
nghiệp của người anh hùng áo vải Lê Lợi, từ lúc dấy binh ở Lam Sơn cùng Nguyễn
Trãi và nhiều danh tướng,
nghĩa sĩ khác cho đến ngày đánh lui quân xâm lược nhà Minh, thu bờ cõi về
tay dân Việt. Tác giả một mặt bám sát các sự kiện có thực đã được ghi trong sử
sách, mặt khác cũng mạnh dạn đưa vào những quan hệ đời thường giữa các nhân vật,
hư cấu thêm vài chi tiết mang màu sắc huyền thoại (như nhân vật Thị Lộ là do con rắn biến hình
mà báo thù Nguyễn Trãi), khiến câu chuyện trở nên sinh động, lôi cuốn, giàu chất
văn xuôi. Cả hai cuốn Man hoang và Việt Nam Lê Thái Tổ xét về mặt hình thức
và lối viết rõ ràng còn chịu ảnh hưởng
sâu đậm loại truyện Tàu.
Những sáng tác Nguyễn Chánh Sắt gọi là
truyện “tâm lý”, “xã hội, “trinh thám” như Lòng người nham hiểm,
Tài mạng tương đố, Tình đời ấm lạnh… chứa đựng nhiều yếu tố đặc trưng của
thể loại tiểu thuyết - loại tác phẩm viết theo kỹ thuật của tiểu thuyết phương
Tây, không cùng mẫu hình với loại truyện chí. Những sáng tác này hướng vào các
vấn đề xã hội hiện đại, kết cấu và lời văn có phần linh hoạt mới mẻ hơn so với
các sáng tác thuộc loại “kiếm hiệp, dã sử”. Cuốn Lòng người ham hiểm mở
đầu ở thời hiện tại, bằng sự kiện Hoàng Hữu Chí bị xe ngựa của bà phủ và hai cô
con gái nuôi là Xuân Lan và Thu Cúc đi vía Bà ở núi Điện (Tây Ninh) lấn đường,
làm suýt ngã. Kế đó mạch truyện mở ra theo dòng “độc thoại” của Hoàng Hữu Chí về
“cái buổi ưu thắng liệt bại” mà giở lại lai lịch, gốc gác, hành trạng của các
nhân vật ở thời quá khứ. Rồi khi Lâm Xuân Kỳ xuất hiện thì câu trở về hiện tại
với những mưu sâu, kế độc của nhân vật này nhằm hãm hại Hoàng Hữu Chí, chiếm đoạt
Thu Cúc. Một câu chuyện đời thường với những mâu thuẫn, xung đột mang nội dung
thế tục và được trình bày khá mạch lạc, tự nhiên… khiến tác phẩm có dáng dấp của
một truyện vừa hiện đại.
Ngoài ra, ở Nguyễn Chánh Sắt còn gặp loại sáng tác có
tính chất quá độ, trung gian giữa truyện chí và tiểu thuyết. Đó là những truyện
được thể hiện thành nhiều đoạn, mỗi đoạn có một tiêu đề như thấy ở Nghĩa
hiệp kỳ duyên, Một đôi hiệp khách, hoặc được phân làm nhiều “lớp” như thấy ở Gái
trả thù cha (40 lớp). Hình thức, bố cục vẫn theo lối tiểu thuyết
chương hồi Trung Hoa nhưng đề tài, kết cấu, dụng văn lại theo lối tiểu thuyết
phương Tây. Trong số đó, có lẽ Một đôi hiệp khách gần hơn với
loại truyện chí, còn Nghĩa hiệp kỳ duyên nghiêng về loại tiểu
thuyết. Điều này đã được các nhà nghiên cứu chú ý. Hoài Anh cho rằng “Truyện Một
đôi hiệp khách (…) đã mô phỏng những truyện võ hiệp của Trung Hoa”
[1;1]. Bùi Đức Tịnh nhận xét Nghĩa hiệp kỳ duyên là “một tác
phẩm tiêu biểu của bộ môn tiểu thuyết được hình thành bằng kết hợp những truyền
thống về truyện có sẵn của văn học Việt Nam với những đặc tính của tiểu thuyết
phương Tây” [7; 233].
Đi từ truyện chí đến tiểu thuyết, Nguyễn Chánh Sắt có
chuyển biến trong cảm quan hiện thực của mình. Từ chỗ sáng tạo dựa trên kinh
nghiệm (đọc, dịch truyện Tàu) và tưởng tượng, hư cấu, dần dần ông cũng ý thức
đưa những “chuyện đời này, là sự thường có trước mắt” (Nguyễn Trọng Quản), những
“việc trong xứ mình” (Trần Chánh Chiếu) vào các trang viết - sáng tạo dựa trên
sự quan sát, cảm nhận về cuộc sống hiện tại. Thế giới nghệ thuật trong các truyện
dã sử, kiếm hiệp của ông chỉ là hồi quang của lịch sử, được khơi gợi từ thực tế
xã hội giông bão phũ phàng với xúc cảm mang màu sắc lãng mạn. Nội dung hiện thực
rõ nét hơn trong những “kim thời tiểu thuyết”. Chuyện “Tại Tân Châu, có một người
giàu có lớn là Trịnh Thế Xương, sự nghiệp đáng trăm muôn, vợ mất sớm, có để lại
một đứa con gái (…) là Trịnh Phương Lang (…) lúc mới lên sáu tuổi bị hoả tai
nên lạc mất. Từ đó đến nay đã ngót 12 năm, biệt tích vắng tăm, không ai tìm được“
(Nghĩa hiệp kỳ duyên). Chuyện ông quan huyện Nguyễn Trọng Luân ở Vĩnh An
Hà “thanh liêm cang trực, giàu chẳng sợ, khó chẳng khi” vì “sự bảo lãnh liên
can“ phải “biến mãi gia sản để trừ cho đủ số nợ 5000 đồng” mà thành ra nghèo
túng, chật vật, con cái tha phương, gia đình ly tán; còn bạn ông là Phan Mẫn Đạt,
“một nhà buôn bán rất to, vì một ngọn lửa vô tình mà trong giây phút phải hoá
ra một đống tro tàn rất nên thê thảm” (Lòng người nham hiểm). Chuyện ông
Đỗ Khắc Thới, một “hào hộ phú gia” ở Chợ Gạo “nhưng bởi tánh ông từ thiện, chẳng
khổ khắc và sâu mọt của ai, mà ông chỉ bố thí ra hoài (…) lại thêm luôn mãi 4
năm trời, mùa màng thất bát, cho nên gia vận phải suy vi, lần lần ruộng đất
tiêu mòn”, sau đó lâm trọng bệnh đành cầm nhà bán ruộng để thuốc thang mà vẫn
không qua khỏi (Tài mạng tương đố)… Tất cả đều phản ánh một phương diện
có thực của xã hội Nam Bộ vào những năm đầu thế kỷ XX - xã hội trong buổi giao
thời, đang trên đường tư sản hóa đã làm đảo lộn cuộc sống nhiều gia đình, thay
đổi nhiều thân phận, nhất là đối với tầng lớp quan lại, trung lưu. Nguyễn Chánh
Sắt “ngậm ngùi, chép miệng than dài” về sự đau khổ, đổ vỡ, sự không hài hoà giữa
con người và xã hội: “Những kẻ có chí lo đời thường bị việc rủi ro, cho đến nỗi
phải bại gia tán sản. Còn những kẻ khán tài nô cùng những phường công tử bột
thì ăn sung mặc sướng, xuống ngựa lên xe, kẻ thì đem bạc vạn mà chôn theo mấy
đám trăng hoa, người thì vác bạc muôn đi thua cờ bạc… vô ác bất vi”. Hiện thực ấy
tuy chưa phong phú rộng rãi so với vài tác phẩm cùng thời nhưng vẫn có giá trị
nhận thức, có tác dụng chuẩn bị cho dòng văn học hiện thực phê phán sau này.
Bên cạnh khuynh hướng hiện thực, Nguyễn Chánh Sắt còn là
nhà văn có khuynh hướng luân lý. Sáng tác của ông, dù ở thể tài nào cũng toát
lên một tư tưởng chung rất nhất quán: phê phán bọn nhà giàu, quyền thế bất
lương; bênh vực người nghèo khổ bị áp bức và đề cao khát vọng hạnh phúc gia
đình, công bằng xã hội. Tư tưởng ấy xuất phát từ lập trường đạo đức - một thứ đạo
đức có tính chất nhị nguyên, vừa mang màu sắc phong kiến vừa mang màu sắc dân
gian. Khuynh hướng đạo đức thể hiện ở cách đặt nhan đề tác phẩm (Nghĩa hiệp
kỳ duyên, Một đôi hiệp khách, Tài mạng tương đố, Lòng người nham hiểm…); ở
cách chọn tên nhân vật (người tốt gồm những Trọng Luân, Trọng Nghĩa, Hữu Chí,
Chấn Quốc, Hạo Nhiên, Ngươn Kiệt; kẻ xấu là bọn Hữu Chanh, Tám Chĩnh, Câu Bảy,
Thị Bườn, Phi Đáng; con gái đẹp nết, đẹp người được gọi Xuân Lan, Thu Cúc, Mộ Trinh,
Lệ Dung…); ở lối kết thúc có hậu trong cảnh đại đoàn viên. Nhân vật chính trong
tác phẩm Nguyễn Chánh Sắt, chính diện cũng như phản diện, thường được xây dựng
với mục đích thuyết minh cho quan niệm:
“Thiện ác đáo đầu chung hữu báo
Chỉ tranh lai tảo dữ lai trì”
(Nghĩa
hiệp kỳ duyên)
Người hiền lương chính trực, làm điều thiện, việc nghĩa sẽ
được đền bù xứng đáng về sau (ở hiền gặp lành); còn kẻ ác gian hiểm độc, hành động
phi nghĩa, bất nhân sớm muộn cũng bị trừng phạt (ở ác gặp dữ). Khuynh hướng đạo
đức làm cho nội dung tư tưởng tác phẩm Nguyễn Chánh Sắt lành mạnh, trong sáng,
dung dị, dễ tiếp nhận đối với số đông công chúng bình dân. Nhưng nó cũng là rào
cản ông trên đường đi tới chủ nghĩa hiện thực. Khuynh hướng đạo đức không phải
là hiện tượng riêng biệt ở Nguyễn Chánh Sắt mà là khuynh hướng phổ biến trong
các nhà văn Nam Bộ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, từ Nguyễn Đình Chiểu đến
Hồ Biểu Chánh.
Một phương diện khác cũng khá đặc sắc ở Nguyễn Chánh Sắt
là văn chương ông có phong vị Nam Bộ đậm đà. Cái phong vị đó bàng bạc khắp các
tác phẩm, từ ngôn ngữ, khung cảnh, sinh hoạt, phong tục đến diện mạo tính cách,
tâm lý nhân vật. Miêu tả hành động vội vã ông dùng những từ:”lật đật lưởi đưởi,
lập cập lưởi cưởi, dấp dính dấp dưởi”; thể hiện trạng thái bực bội, uất ức ông
có những từ “tấm tức tấm tưởi, bù xa bù xít, xầm xì xậm xịt”; nói đến cái nghèo
tận đáy xã hội ông viết “nghèo khô nghèo khiển”… Đó chính là từ ngữ và cách nói
rất riêng của người bình dân Nam Bộ mà bây giờ vẫn còn nghe thấy ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Ngôn ngữ đối thoại của ông rất giống lời nói cửa miệng quần
chúng, đôi khi đạt trình độ cá thể hóa khá cao, thể hiện được nét tính cách
nhân vật. Đào Phi Đáng là đứa trắc nết, lẳng lơ, giả dối nên dù cố tỏ ra ngây
thơ thật thà đến mấy thì cái bản chất gian ngoan vẫn cứ bộc lộ qua khẩu khí,
ngôn từ: “Tôi lúc ấy còn khờ dại quá, nghe nói đem về cho tía má tôi, thì mừng
không khóc nữa. Chẳng dè họ chèo thẳng lên Nam Vang (…) mà bán tôi cho một người đầu
gà đít vịt, mà người ấy lại thương tôi lắm, ban đầu tôi còn nhớ cha tôi mà
khóc hoài, sau họ dỗ dành ngon ngọt tôi, cho tôi ăn mặc phủ phê, lần
lần nguôi ngoai nên tôi không khóc nữa. Tôi ở làm con nuôi người ấy được ba bốn
năm, rủi sao cha mẹ nuôi tôi lại bị xuông dịch mà chết hết, làm cho
tôi côi cút một mình, khách địa bơ vơ” (Nghĩa hiệp kỳ duyên). Không cô
gái đoan chính nào kể về tuổi thơ lưu lạc của mình bằng giọng điệu ngôn từ vô cảm
và thô tục như vậy. Còn đây hình ảnh một bà mẹ Nam Bộ đôn hậu, chăm bẳm cho hạnh
phúc con gái yêu, được thể hiện qua lời nói chứa đầy tâm trạng: “Này con, má thấy
Đỗ Khắc Xương thiệt má thương nó quá; thằng sao tuổi tuy nhỏ mà phẩm hạnh đoan
trang, cử chỉ đàng hoàng, nói năng nho nhã; ngặt vì nhà nó nghèo, mà tánh cha
con thì khó quá chứ phải tánh cha con mà cũng được như tánh má đây vậy, chẳng cần
sự giàu nghèo, miễn là tài đức cho vẹn toàn là dủ, thì má gả con cho nó để hầu
sửa trấp nưng khăn, cho tròn ơn tròn nghĩa” (Tài mạng tương đố). Các
nhân vật chính diện của Nguyễn Chánh Sắt thường có nét phẩm chất, tâm lý rất
tiêu biểu cho bản sắc của người Nam Bộ: hào hiệp, phóng khoáng, quảng giao, say
mê nghĩa cả có khi còn pha chút anh hùng cá nhân. Các nhân vật Trần Trọng Nghĩa
(Nghĩa hiệp kỳ duyên), Nguyễn Trọng Luân, Hoàng Hữu Chí, Phan Chấn Quốc
(Lòng người nham hiểm); Đỗ Khắc Xương, Nguyễn Hạo Nhiên (Tài mạng
tương đố), Kế Xương, Ngươn Kiệt (Một đôi hiệp khách)... đều có dáng
dấp của những Lục Vân Tiên, Hớn Minh, Vương Tử Trực của Nguyễn Đình Chiểu trước
đây và cũng không phải hoàn toàn xa lạ với những nhân vật của Sơn Nam, Lý Văn
Sâm, Đoàn Giỏi, Nguyễn Thi, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng sau này.
Nguyễn Chánh Sắt viết tiểu thuyết khi thể loại này mới chỉ
bắt đầu xây dựng, chữ Quốc ngữ chưa phổ cập, câu văn xuôi còn cọc cạnh, nặng nề.
Kinh nghiệm, kỹ thuật viết tiểu thuyết hãy còn là vấn đề mò mẫm, tập dượt, thậm
chí bắt chước các nhà văn nước ngoài. Cho nên tác phẩm của ông khó tránh khỏi
những hạn chế, nhất là về kỹ thuật và lối hành văn. Có lẽ vì chăm chút chu đáo
phần “đạo” mà xao lãng phần “đời” nên các tác phẩm có bố cục , kết cấu giống
nhau và khá đơn điệu. Nhân vật phần lớn đều thuộc loại nhân vật chức năng, nhân
vật loại hình cốt để minh họa cho tư tưởng, quan niệm, triết lý của tác giả. Thể
tài tuy đa dạng nhưng là truyện đơn thanh được kể bởi một người và bằng một giọng.
Tác phẩm nào cũng có một vài chi tiết dễ dãi, tự nhiên chủ nghĩa hoặc giả tạo
khiên cưỡng; và không ít những câu văn hồn nhiên kiểu như: “gần chót, giờ
lâu, chẳng thấy dạng nàng, anh ta buồn ý giở tờ nhựt báo xem chơi
cho tiêu khiển” (Nghĩa hiệp kỳ duyên); “Ai ngờ là vừa tới thiên
tĩnh, A Căn ở ngoài lật đật lưởi đưởi chạy a vào, đụng nhằm con Xuân Hỷ một cái
rất mạnh, làm cho chén yến sào rớt xuống đất bể nát, mà yến sào cũng đổ
hết” (Man hoang kiếm hiệp). Cuối cùng tác phẩm của Nguyễn Chánh Sắt
còn là những chứng tích thú vị về mặt ngữ âm, từ vựng, chính tả của người Nam Bộ
trong những năm đầu thế kỷ XX.
Khi nhìn lại các nhân vật trong quá khứ, Lênin có đưa ra
một nguyên tắc đánh giá hết sức quan trọng: “Phải xét những đóng góp lịch sử
không phải căn cứ vào chỗ là những nhà hoạt động lịch sử đã không làm
được cái gì so với những yêu cầu hiện tại, mà phải căn cứ vào chỗ là họ đã
làm được cái gì so với những người đi trước họ”. Vận dụng nguyên tắc này
vào văn học, vào việc xác định phần thành công và hạn chế của Nguyễn Chánh Sắt,
như vừa phân tích ở trên, rõ ràng ông “đã làm được” những điều rất có ý nghĩa
so với những nhà văn trước đó cũng như so với một số nhà văn cùng thời. Chỉ
riêng cuốn Nghĩa hiệp kỳ duyên cuả ông cũng đủ làm nên một hiện
tượng đáng nhớ trong văn học hồi đầu thế kỷ XX. Cuốn sách nổi tiếng đến mức tên
nhân vật chính Chăng Cà Mum được độc giả đương thời yêu thích dùng để gọi tác
phẩm. Nhiều người trước năm 1945 đã gọi phụ nữ Khmer hay người Khmer nói chung
là Chăng Cà Mum. Thậm chí những bạn thân gởi thư cho Nguyễn Chánh Sắt chỉ cần đề
ở phong bì “Monsieur Chăng Cà Mum, báo Nông cổ mín đàm” mà thư cũng đến. Với
thành công của Nghĩa hiệp kỳ duyên và những tác phẩm khác,
Nguyễn Chánh Sắt không chỉ xác lập được chỗ đứng riêng cho mình trong lòng độc
giả mà còn góp công rất lớn vào việc thúc đẩy thể loại tiểu thuyết ở thời kỳ
phôi thai tiến lên một bước.
NGUYỄN VĂN HÀ
ĐHKHXH&NV TPHCM
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
(1) Hoài Anh, 1989, Lời giới thiệu Một đôi hiệp khách, NXB TPHCM.
(2) Hoài Anh - Thành Nguyên - Hồ Sĩ Hiệp, Văn học Nam Bộ từ đầu đến nửa thế kỷ
XX (1900 - 1945), NXB TP HCM, 1988.
(3) Trần Văn Giàu - Trần Bạch Đằng - Nguyễn Công Bình (chủ biên), Địa chí văn
hoá TP HCM, tập II, Văn học, NXB TP HCM, 1988.
(4) Bằng Giang, Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865-1930, NXB Trẻ, TPHCM, 1992.
(5) Trần Đình Hượu - Lê Chí Dũng, Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 - 1930, NXB
ĐH&GDCN, Hà Nội, 1988.
(6) Mã Giang Lân (chủ biên), Quá trình hiện
đại hoá văn học Việt Nam 1900 - 1945, NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 2000.
(7) Bùi Đức Tịnh,
Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới, NXB TPHCM, 1992.
(8) Huỳnh Văn Tòng, Báo chí Việt Nam từ khởi thuỷ đến 1945, NXB TP
HCM, 2000.
(9) Nguyễn Q. Thắng, Tiến trình văn nghệ miền
Nam, NXB An Giang, 1990