Thi sĩ Á Nam Trần Tuấn Khải
Ký ức về một nhà Nho yêu nước
Năm nay, như
thường lệ, người ta lại thấy nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý ngồi ở vị trí trang
trọng nhất, trong tư cách người anh
cả, cùng nhà thơ Lan Hinh đại diện cho phía gia đình cụ Á Nam Trần Tuấn
Khải.
Nhờ duyên hội ngộ của cuộc đời và văn chương, nhạc sĩ
Nguyễn Văn Tý đã được vợ chồng cụ Á Nam lúc sinh thời coi như con trai. Cụ Á
Nam có phong cách của một nhà Nho, mà lại là nhà Nho đất Bắc nên ở nhiều phương diện, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý cảm
thấy mình như người ruột thịt trong
gia đình.
Ông nhớ lại: "Ngày xưa khi hai cụ còn sống, tôi nhớ nhất một buổi, bà cụ gọi tôi đến bên
giường, kêu hai cô con gái lại rồi bảo,
nhà này không có con trai, mẹ coi anh Tý là con, nên anh nói gì các con
phải nghe". Lời dặn ấy, nhiều thập kỷ trôi qua, cả nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý lẫn
hai cô gái vẫn không quên.
Với nhà văn Sỹ Ẩn, kỷ niệm về cụ Á Nam lại bắt đầu bằng
câu chuyện mẹ ông kể cho nghe về ngày bà tiễn chân chồng xuống tàu từ Nam Định
vào Nam năm 1938. Hồi đó, mẹ nhà văn đã dùng những lời trong bài thơ của cụ Á Nam để tiễn chồng lên đường:
Anh khóa ơi! Em tiễn chân anh xuống tận bến tàu
Đôi tay em đỡ cái khăn trầu, em lấy đưa anh…
Anh khóa ơi ! Còi tu tu tàu sắp kéo cầu
Đường trần em sắp sửa
gánh sầu từ đây.
Có lần sau năm 1975, khi nhà thơ Huy Cận vào công tác miền Nam, biết tin cụ Á Nam
ốm phải nằm viện, có nhờ ông Sĩ Ẩn đưa tới thăm. Trên đường đi, Huy Cận cứ băn
khoăn mãi chưa biết xưng hô
thế nào cho phải với cụ. Lúc tới nơi, thấy cụ, Huy Cận bước tới ôm chầm và đột
nhiên bật ra tiếng gọi "Anh khóa ơi". Thế là hai người cảm động ôm
nhau sau hàng chục năm xa cách.
Liên hệ tới những
giá trị còn rất thời sự trong thơ ca yêu nước của cụ, Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã cho rằng, thơ ca yêu nước của cụ Á Nam Trần Tuấn Khải
đã có tác động sâu sắc tới quần chúng nhân dân và phong trào đấu tranh
giai đoạn đầu thế kỷ XX. Theo Tiến sĩ Nguyễn Nhã, hơn lúc nào hết, giới trẻ ngày nay nên đọc lại những
vần thơ của cụ Á Nam, cũng như bồi dưỡng lòng yêu nước trong thời kỳ hòa bình, xây dựng.
Nhà văn Vũ Hạnh từng có thời gian làm việc cùng cụ Á Nam
Trần Tuấn Khải ở lực lượng bảo vệ
văn hóa dân tộc. Sau khi vào Nam, cụ Á Nam là chủ tịch danh dự của tổ chức này.
Nhà văn Vũ Hạnh nói, ông chỉ có thể dùng hai chữ "tuyệt vời" để nói về
con người và nhân cách cụ Á Nam.
Không chỉ bày
tỏ lòng thán phục trước năng
lực tự học của cụ Á Nam Trần Tuấn Khải, nhà giáo Nguyễn Quảng Tuân cho biết,
trong quá trình nghiên cứu, ông đã chép tay và giữ lại được khoảng hơn
20 bản thảo các bài dịch thơ Đường của
cụ Á Nam đăng trên báo Đông Dương tạp chí từ năm 1917.
Yêu mến cố thi
sĩ Trần Tuấn Khải, nhà giáo Nguyễn Quảng Tuân cũng đã viết một bài hát
nói có tên "Tấm gương tự học"
dành tặng cụ. Bài hát nói có những câu như: Mới mười hai đã đọc sách Hán
văn
Với phụ thân riêng
cố gắng chuyên cần
Thành học giả từ những
năm tiền chiến
"Hồn tự lập"
bao nhiêu sáng kiến
"Bút quan
hoài" thực lắm công phu
Chống thực dân hết
vào khám ra tù
Theo gương
sáng Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng…
Chưa hề có một tuyển tập Á Nam
Về bản thảo, tới
nay, số tác phẩm đã in của cụ Á Nam Trần Tuấn Khải đã bị thất lạc khá nhiều. Cụ
sinh năm 1895, tạ thế ngày 7/3/1983, bắt đầu in sách từ năm 1920. Với các bút
danh Á Nam (thường dùng), Đông Minh, Đông Á Thị, Tiểu Hoa Nhân, Lâm Tuyền
Khách, Giang Hồ Khách, Lôi Hoàng Cư Sĩ, cụ Á Nam Trần Tuấn Khải đã xuất bản hàng chục tác phẩm. Về thơ có: "Duyên nợ phù sinh" I, II;
"Bút quan hoài" I, II; "Hồn tự lập" I, II; "Với sơn
hà" I, II; "Hậu anh Khóa". Về tiểu thuyết có: "Gương bể
dâu" I, "Hồn hoa" và
"Thiên thai lão hiệp". Về kịch, cụ Á Nam có vở "Mảnh gương đời" (1925). Về dịch thuật, cụ
cũng là một tên tuổi lớn, được độc giả nhiều thập kỷ nhớ đến qua các bản dịch:
"Thủy hử" (1925), "Hồng lâu mộng" (1934) và "Đông Chu
liệt quốc" (1934).
Trong cuốn
"Thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải" (NXB Văn học, Hà Nội, 1984), nhà thơ
Xuân Diệu từng viết: "Tôi không quên lúc học lớp nhì, 14 tuổi, tôi
mượn được quyển "Bút quan
hoài". Tôi chép vào quyển vở mới một số đoạn thơ thích nhất... Quyển vở
thơ Trần Tuấn Khải quí báu của tôi, như là tiếng gọi của lương tâm!".
Tuy nhiên,
cũng theo nhà thơ Lan Hinh, hiện tại, bà không còn giữ lại được bản in
nào trong số các tác phẩm đã xuất bản đó của cha mình. Dù rất muốn có thể tái bản
các tác phẩm của phụ thân, song do tuổi cao, sức yếu, điều kiện tài chính hạn hẹp,
bà Lan Hinh vẫn chưa thể thực hiện
mong ước đó.
Nhà văn Sỹ Ẩn
đề cập vấn đề bản thảo cuốn sách toàn tập Á Nam Trần Tuấn Khải. Theo ông, về việc
này, trước đây ông đã trao đổi, bàn bạc với nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam và được
ông nhiệt liệt tán đồng. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, chủ yếu do điều kiện,
tới nay, Hội Nhà văn Việt Nam vẫn chưa thực hiện được tuyển tập đó.
Bà Lan Hinh thực sự mong muốn các cơ quan chức năng có những quan tâm và hành động cụ
thể, thiết thực, để có thể cùng bà khôi phục lại di sản văn chương của cha mình.
Ở tuổi ngoài bảy mươi, bà cảm thấy mình
gần như lực bất tòng tâm trước ước nguyện này.
Còn đó những nỗi niềm
Ngoài tình cảm yêu quý, trân trọng về tài năng và nhân
cách của thi sĩ Á Nam Trần Tuấn Khải, nhiều trí thức văn nghệ sĩ đã đề xuất những
vấn đề liên quan tới nghĩa cử tri ân cố thi sĩ Trần Tuấn Khải vì đóng góp đáng
kể trong thi ca, nghệ thuật.
Nhà văn Sỹ Ẩn cũng nhắc tới chuyện cần hợp thức hóa mảnh
đất xây dựng khu tưởng niệm cụ ở quê hương Lộc Hà, Mỹ Lộc, Nam Định. Ông cho biết, khu đất huyện Mỹ Lộc, Nam Định
cấp cho gia đình cụ Á Nam xây từ đường tới nay vẫn chưa được hợp pháp
hóa trên giấy tờ, dù trong thực tế, chính quyền đã chấp thuận.
Bên cạnh đó, nhiều ý kiến đồng thuận trong đề nghị các
đơn vị chức năng cân nhắc tới việc truy tặng cụ một giải thưởng xứng đáng, như
Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ
thuật, vì những đóng góp đã có
TRẦN ĐẮC LUÂN
Nguồn: VNCA