Nhà thơ Phan Văn Trị
Phan Văn Trị (
1830-1910) , nguyên quán huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Sau lên Gia Định học
và đỗ Cử nhân nên gọi là Cử Trị. Năm 1862, sau khi Pháp đánh chiếm Gia Định
(1962), nhà thơ lánh về làng Bình Cách, Tân An, sống bằng nghề dạy học.
Sau khi ba tỉnh miền Đông và ba tỉnh miền Tây lần lượt rơi vào tay Pháp, năm 1968, Phan Văn Trị về sống
hẵn ở huyện Phong Điền, Cần Thơ cưới vợ là bà Đinh Thị Thanh, ngày ngày tiếp tục
lo dạy học và làm thơ. Tác phẩm của Phan Văn Trị hiện giữ được : 10 bài thơ bút
chiến với Tôn Thọ Tường, 10 bài cảm hoài và 19 bài đề tài tự do, trong đó có 10
bài vịnh loài vật. Cử Trị làm thơ phê phán quan lại xu nịnh, trách triều đình
nhu nhược, gián tiếp tố cáo tội ác của
thực dân, thể hiện lòng yêu đất nước quê hương. Tại Giồng Trôm, Bến Tre nguyên quán của nhà
thơ có nhà tưởng niệm Phan Văn Trị và tại Phong Điền, Cần Thơ, khu mộ nhà thơ
xây dựng trang trọng, được công nhận là Di tích Lịch sử cấp Quốc gia cùng lúc với
nhiều trường học và con đường ở các tỉnh lớn được mang tên nhà thơ yêu nước
Phan Văn Trị từ trước 1975.
Phan Văn Trị
sinh năm 1930 tại Bến Tre và lớn lên trong một gia đình lễ giáo Nho
phong. Năm 1947, chàng thanh niên hiếu học họ Phan rời quê nhà lên học ở Gia Định
(Sài Gòn). Nhân kỳ thi Hương tổ chức
tại trường Gia Định năm 1949, Phan Văn Trị dự thi và đỗ Cử nhân nên được nhiều
người gọi là Cử Trị. Sống trong thời “quốc phá gia vong”, dù đỗ đạt, Phan Văn Trị
không ra làm quan mà tìm cách lui về sống đạm bạt bằng nghề dạy học tại
Long An. Sau khi cả sáu tỉnh Nam Kỳ rơi
vào tay Pháp, ông tị địa về Vĩnh Long rồi lui về sống tại làng Nhân Ái,
huyện Phong Điền, Cần Thơ.
Sự nghiệp văn chương của Phan Văn Trị bao gồm trong khoảng
100 bài thơ hầu hết làm theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật ngoài hai câu
đối. Một câu tương truyền được nhà thơ làm nhân khi ra Huế: “Phú quý
Trường An, rong quấn cổ/ Phong lưu kinh địa, chấy đầy đầu” ngụ ý cho
biết công danh phú quý chỉ ràng buộc, gây cảnh mất tự do của con người. Câu còn
lại do Phan Văn Trị sáng tác để bày tỏ lòng tiếc thương những nghĩa sĩ đả bỏ
mình trong cuộc khởi nghĩa của Đinh Sâm tại Láng Hầm, cạnh Phong Điền : “Võ
kiếm xung thiên, Ba Láng giang đầu lưu hận huyết/ Văn tinh lạc địa, Trà Niềng
thôn lý đãi sầu nhan” (nghĩa : Kiếm võ ngút trời, Ba Láng sông sâu, tràn
huyết hận/ Sao văn sa đất, Trà Niềng thôn xóm thảy sâu mamg). Người ta hay nhắc
đến giai thoại, có lần cùng bạn thân là đốc học Trưng đi bộ từ Cần Thơ đến Bình
Thủy, dọc đường Phan Văn Trị vừa đi, vừa đái, vừa ngâm hai câu thơ thất ngôn:
“Đứng lại làm chi phải mất công/ Vừa đi vừa đái vẽ nên rồng” nhằm tỏ thái độ
phê phán mạnh mẽ đối với triều đình vua chúa thối nát. Nhìn lại những bài thơ
thuộc loại “Cảm hoài” và nhất là 10 bài thơ, làm theo thể ‘thập thủ liên hoàn’
họa lại thơ của Tôn Thọ Tường. Đọc lại những bài thơ luật giàu tính chiến đấu
này của Phan Văn Trị, người đọc dễ xúc động trước tấm lòng sáng trong, cao đẹp
như một vầng dương của một nhà thơ trí thức yêu nước mang lập trường dân tộc rõ
nét. Phan Văn Trị không làm thơ hưởng thụ ngắm hoa thưởng nguyệt, theo kiểu
‘trà dư tửu hậu’ như một số người xưa nay. Nhà thơ luôn sử dụng ngòi bút như một
vũ khí sắc bén, đấu tranh chống bọn tay sai mù quáng hám lợi, triều đình hủ bại
yếu hèn và kẻ thù ngoại xâm tàn bạo của đồng bào.
Để tránh đụng chạm khi chê trách vua quan phong kiến nhà
Nguyễn và tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp, Phan Văn Trị đã khéo ví von,
mượn hình ảnh loài vật và cây cỏ thay thế con người, giống như nhà thơ ngụ ngôn
(fabuliste) Pháp La Fontaine (1621-1695) : Cây bần, Con cào cào, Con muỗi, Đá
cá lia thia … Trước cảnh nhiểu nhương, loạn lạc của nước nhà, kẻ làm trai tài
giỏi mà không biết nghĩa vụ quan trọng của mình thực là loài cây cỏ vô dụng
đáng trách : “Cao lớn làm chi, bần hỡi bần/ Uổng sanh trong thế, đứng tần ngần
!” (Cây bần). Nhà thơ chỉ trích bậc “dân chi phụ mẫu” (như : cha mẹ của
dân) mà chỉ là đồ vô dụng, ăn hại như con muỗi, con rận hút máu của dân : “Béo
miệng chẳng thương con trẻ dại/ Cành hông nào đoái chúng dân nghèo” (Con muỗi);
“ Khéo sinh trong thế chi cho rộn/ Có có, không, không, cũng chẳng cầu” (Con rận).
Với lũ quan hại dân hại nước đó, nhà thơ lên tiếng cảnh cáo: “Ngày nào miễn gặp
cây xơ quất/ Xử tội nhà ngươi, mắt chẳng nheo” (Con ruồi). Với triều đình mụt
nát yếu hèn, nhà thơ không thể bình thản dửng dưng. Những lúc cường độ phẩn uất
vua Tự Đức gia tăng, nhà thơ không tránh khỏi có những lời thẳng thừng mạnh mẽ,
thể hiện một thái độ quyết liệt không khoan nhượng: “Trảm càn đức chi đầu/ Ẩm
càn đức chi huyết/ Phanh càn đức chi thi/ Thực càn đức chi nhục” (Chém
đầu càn đước/ Uống huyết càn đước/ Xé thây càn đước/ Ăn thịt càn đước). Lượng sức
mình không xoay nổi thời thế, Phan Văn Trị đã hai lần tránh xa thực trạng chướng
tai gai mắt. Một lần ông Cữ Trị né chốn quan trường, một lần khởi xướng phong
trào “tỵ địa”, tránh xa , không sống chung với “lũ quỷ trắng” thực dân Pháp.
Nhà văn Nhất Tâm Nguyễn Bá Thế (1925-1996) đã nhận định chính xác về Phan Văn
Trị : Phan chỉ chán lối hoạn trường. Nhưng với dân với nước, Phan luôn chú tâm
theo dõi. Bằng chứng là Phan đã ngụ ở lòng mình bằng những bài thơ ký thác thiết
tha, xuất phát từ một tâm hồn đã xao xuyến, rung động vì nhịp tiến của thời thế
và bước đi của dân tộc.
Tâm hồn nhạy cảm của Phan Văn Trị đã nói lên trong thơ nỗi
niềm đau đáu của người dân mất nước trong nhiều bài “Cảm hoài” man mác tâm sự của
nhà thơ. Âm thanh tiếng kèn Tây xa lạ báo hiệu những đổi thay tang tóc hải hùng
trên quê hương. Nhà thơ vừa xót xa cho tổ quốc bị thực dân tàn ác giày xéo, vừa
thầm trách những quan lại vô trách nhiệm của triều đình phong kiến : “Tò le kèn
thổi tiếng năm ba/ Nghe lọt vào tai, dạ xót xa”/…“Tan nhà cám nỗi câu ly hận/ Cắt
đất thương thay cuộc giảng hoà/ Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ/ Ngậm cười hết nói
nỗi quan ta” (Mất Vĩnh Long); “Nhìn Nam chạnh tủi cành hoa ủ/ Ngó Bắc ngùi
thương đám bạch vân” (Cảm hoài- Bài 2). Nỗi đau bi thương khơi dậy trong thơ Cử
Trị một hoài vọng tiếc nuối khôn nguôi về đất nước thanh bình ngày trước: “Non
sông cảnh cũ, tình hoài vọng/ Tùng cúc vườn xưa, cảnh nhớ người” (Cảm hoài -
Bài 8).
Không thể âm thầm gánh chịu đau thương một các tiêu cực,
Phan Văn Trị thể hiện bằng hành động thức thời. Nhà thơ, với lập trường kiên định
như sắt thép, dùng ngòi bút như một vũ khí sắc bén, đánh thẳng vào thực dân và
nghiêm khắc tố cáo và lên án bọn tay sai xu thời như Tôn Thọ Tường. Phan Văn Trị
làm thơ củng cố niềm tin ở nhân dân và động viên đồng bào vùng lên đấu tranh,
đi đến ngày chiến thắng. Trước sự hèn nhát, đánh mất sĩ khí của một trí thức mù
quáng vô liêm sĩ như Tôn Thọ Tường (1825-1877) đã xem thế lực vật chất của ngoại
bang với “tàu đồng”, “giây thép”…là vô địch và coi người mình là non kém, đã có
lời lẽ xúc phạm, coi thường người yêu nước: “Miệng cọp, hàm rồng chưa dễ chọc/
Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay”, Phan Văn Trị đã mạnh mẽ trả lời, xem Tôn là
“thằng hoang”, “đứa ngu” như “ếch năm đáy giếng” : “Đáy giếng trông trời trơ mắt
ếch”, “Đứa dại trót đời già cũng dại”, nhà thơ khẳng định tinh thần kiên quyết
chiến đấu của mình và toàn thể nhân dân Nam bộ : “ Đừng mượn hơi hùm rung nhát
khỉ/ Lòng ta sắt đá, há lung lay !”. Tôn làm việc cho giặc, lẫn tránh trách nhiệm
của mình đối với tổ quốc lại hèn hạ, u mê đổ lỗi cho thời thế nên đành nhắm
mắt đưa chân:
“Phải sao chịu vậy…/Nhắm mắt đưa chân lỗi đạo hằng”. Việc
lạ đời là đường đường một đấng “nam nhi chi chí” mà Tôn lại đem mình đi sánh với
một liễu yếu đào tơ, mượn đạo lý Tam tòng của nhà
Hán để biện bạch cho lý do mình họp tác với giặc : “Thà mất lòng anh đặng bụng
chồng” (Tôn phu nhân quy Thục), nên bị ngòi bút nhọn của Phan Văn Trị
đâm lại thẳng thừng và trúng đích : “Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng” (Bài họa Tôn
phu nhân quy Thục). Khi Tôn làm bài “Từ Thứ quy Tào” để bênh vực cho mình
theo một loại vần hiểm hóc để Phan Văn Trị không thể họa lại được : “ Chẳng đặng
khôn Lưu đành dại Ngụy/ Thân này xin gác ngoại vòng thoi !”. Nhưng nhà thơ họ
Phan cũng đã đáp lễ lại cho người bạn thơ có lập trường tư tưởng
đối địch bằng một bài thơ họa “Hát bội” vô cùng điêu luyện và sâu sắc : “Quá bị
trên đầu nhát búa voi/ Kinh luân đâu nữa để khoe mòi” (Bài họa: Hát bội).
Với những bài thơ phê phán quan lại yếu hèn và triều đình
phong kiến nhu nhược, dù không cầm gươm súng tham gia chiến đấu trực tiếp với kẻ
thù xâm lược, Phan Văn Trị vẫn được coi là một nhà thơ chiến sĩ, đã
dũng cảm đấu tranh mãnh liệt bằng ngòi bút thơ sắc bén của
mình như một vũ khí tinh nhuệ. Cuộc xướng họa thi ca giữa Tôn Thọ Tường và Phan
Văn Trị đã tạo nên trận bút chiến nẩy lửa độc nhất vô nhị, làm dậy sóng văn đàn
Nam bộ trong nửa sau thế kỷ 19. Phan Văn Trị, với tinh thần yêu nước nồng nàn
và lòng căm thù giặc sâu sắc, nhà thơ đã không chiến đấu cô đơn trên mặt trận
văn chương, mà luôn được sự hỗ trợ tán dương bởi nhân dân, sĩ phu, nghĩa sĩ và
văn nghệ sĩ khác : Nguyễn Đình Chiểu (1852-1924), Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872),
Nguyễn Thông (1827-1894), Huỳnh Mẫn Đạt (1807-1882), Lê Quang Chiểu
(1852-1924), …Nhớ lại vào năm 1972, trong một lần hướng dẫn một đoàn sinh viên
học sinh Cần Thơ, vượt qua những chiếc cầu khỉ chông chênh, đi dã trại, tham
quan phần mộ nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị - phần mộ Cử Trị lúc ấy còn quá tiêu
điều - tại rạch Trà Niềng (Phong Điền-Cần Thơ). Tôi có tranh thủ thuyết trình tại
chỗ về thân thế và sự nghiệp văn chương mang ý nghĩa cao đẹp của nhà thơ Phan
Văn Trị. Về nhà đêm ấy, trong lòng còn bồi hồi xúc động, tôi cảm hứng sáng tác
bài thơ nội dung liên quan một thị trấn còn mang đậm dấu ấn lịch sử của liệt sĩ
Lê Bình và nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị : “Ở Cái Răng mà nhớ Cái Răng/ Đêm
đêm hồn ngập nỗi bâng khuâng/ Mang mang bìm bịp kêu con nước/ Trăng trắng phù
sa rụng bãi bần/ Xào xạc chèo khuya khua chợ nổi/ Ngọt ngào ca cổ vọng sông
trăng Phong Điền một dạo thăm quê đó/ Vời vợi hồn thơ, nhớ cụ Phan” (Nhớ
Cái Răng).
NGUYỄN THANH
Báo Văn Nghệ