GS.TS Huỳnh Như Phương
Văn học biểu hiện văn hoá, cho nên văn học là tấm gương của
văn hoá. Trong tác phẩm văn học, ta tìm thấy hình ảnh của văn hoá qua sự tiếp
nhận và tái hiện của nhà văn. Đó là bức tranh văn hoá dân gian trong thơ Hồ
Xuân Hương (tục ngữ, câu đố tục giảng thanh, trò chơi…), là những vẻ đẹp của
văn hoá truyền thống trong truyện ngắn và tuỳ bút Nguyễn Tuân (hoa thuỷ tiên,
nghệ thuật pha trà, thư pháp…), là những tín ngưỡng, phong tục trong tiểu thuyết Mẫu
Thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh (đạo Mẫu và tín ngưỡng phồn thực, tục
thờ Thần Chó đá, Thần Cây đa, Thần Thành hoàng, cách lên đồng, hát chầu văn, tục
kết chạ, ma chay, cưới hỏi…). Tác phẩm văn học còn dẫn ta đi đến những nguồn mạch
sâu xa của văn hoá qua việc lý giải tấn bi kịch lịch sử trong kịch Vũ
Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng hay cốt cách người nông dân được đào luyện
qua những biến thiên cách mạng trong các truyện ngắn Khách ở quê
ra và Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu.
Văn hoá tác động đến văn học không chỉ ở đề tài mà còn ở
toàn bộ bầu khí quyển tinh thần bao bọc hoạt động sáng tạo của nhà văn và
hoạt động tiếp nhận của bạn đọc. Bản thân nhà văn với thế giới nghệ thuật của
mình là một sản phẩm văn hoá. Người đọc, với chân trời chờ đợi hướng về tác phẩm,
cũng được rèn luyện về thị hiếu thẩm mỹ trong một môi trường văn hoá nhất định.
Chính không gian văn hoá này chi phối cách xử lý đề tài, thể hiện chủ đề, xây dựng
nhân vật, sử dụng thủ pháp nghệ thuật… trong quá trình sáng tác; đồng thời cũng
chi phối cách phổ biến, đánh giá, thưởng thức… trong quá trình tiếp nhận. Một nền
văn hoá cởi mở, bao dung mới tạo điều kiện thuận lợi cho văn học phát triển. Vì
vậy, có thể nói văn học là thước đo, là “nhiệt kế” vừa lượng định, vừa kiểm
nghiệm chất lượng và trình độ văn hoá cuả một xã hội trong một thời điểm lịch sử
nhất định.
Trong tinh thần đó, nhiều nhà nghiên cứu đã căn cứ vào những
dữ liệu văn học để tìm hiểu bức tranh văn hoá của một thời đại. Nói cách khác,
thực tiễn văn học có thể cung cấp những cứ liệu đáng tin cậy cho khoa nghiên cứu
văn hoá. Chẳng hạn, thông qua nội dung tái hiện của văn xuôi Việt Nam đầu thế kỷ
XX, người ta có thể chứng minh cho quá trình thâm nhập của văn hoá Tây Âu trong
xã hội thời kỳ này, cũng như khoảng cách văn hoá của người thị dân so với người
sĩ phu bị buộc chặt vào những tín điều Nho giáo, một bên, và với người nông dân
bị giới hạn trong văn hoá nông thôn ở làng xã, một bên khác.
Tuy nhiên, cách nghiên cứu có phần “thực dụng” này cũng
có nguy cơ làm cho nghiên cứu văn hoá nuốt chửng nghiên cứu văn học và thủ tiêu
chính đối tượng toàn vẹn của văn học.
Nếu văn hoá chi phối hoạt động và sự phát triển của văn học,
thì ngược lại, văn học cũng tác động đến văn hóa, hoặc trên toàn thể cấu trúc,
hoặc thông qua những bộ phận hợp thành khác của nó. Những nhà văn tiên phong của
dân tộc bao giờ cũng là những nhà văn hoá lớn. Bằng nghệ thuật ngôn từ, họ đấu
tranh, phê phán những biểu hiện phản văn hoá, đồng thời khẳng định những giá trị
văn hoá dân tộc, nhân bản và khai phóng. Dù là phản ứng trước những làn sóng
văn hoá tiêu cực hay cổ vũ cho sự tiếp biến văn hoá, giới trí thức sáng tác
tinh hoa bao giờ cũng là những người tiên phong mở ra hướng nhìn về vận hội mới
của văn hoá dân tộc.
Giữa văn học và văn hoá có mối quan hệ hữu cơ mật thiết
như vậy, nên việc tìm hiểu văn học dưới góc nhìn văn hoá là một hướng đi cần
thiết và có triển vọng. Cùng với những cách tiếp cận văn học bằng xã hội học, mỹ
học, thi pháp học…, cách tiếp cận văn học bằng văn hoá học giúp chúng ta lý giải
trọn vẹn hơn tác phẩm nghệ thuật với hệ thống mã văn hoá được bao hàm bên trong
nó. Những yếu tố văn hoá liên quan đến thiên nhiên, địa lý, lịch sử, phong tục,
tập quán, ngôn ngữ… có thể được vận dụng để cắt nghĩa những phương diện nội
dung và hình thức của tác phẩm. Nó cũng có thể góp phần lý giải tâm lý sáng
tác, thị hiếu độc giả và con đường phát triển nói chung của văn học.
Cách tiếp cận văn hoá học như vậy thực chất là đặt văn học
trong không gian văn hoá với những đặc trưng của nó đã thâm nhập một cách tinh
vi vào thế giới sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Ở những người nghệ sĩ lớn, đó
không phải là sự “ăn tươi nuốt sống” mà là sự tiêu hoá và thẩm thấu vào từng
hình tượng, chi tiết của tấm thảm dệt ngôn từ. Sự thẩm thấu này truyền đi cả
theo hai chiều lịch đại và đồng đại. Một mặt, những giá trị từ nguồn văn
hoá truyền thống rì rầm chảy trong mạch ngầm của nó và thấm vào thế giới hình
tượng và ngôn từ của tác phẩm mà đôi khi chủ thể sáng tạo không ý thức một cách
tự giác. Mặt khác, những giá trị văn hoá mới hình thành vào lúc đương thời
không thôi cám dỗ, kêu gọi, thách thức, đòi hỏi nhà văn phải trả lời, trực tiếp
hay gián tiếp, bằng ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm của mình. Đối với những
tài năng bậc thầy, cả hai chiều thẩm thấu ấy hoà trộn một cách nhuần nhuyễn đến
mức khó mà tách bạch rõ ràng.
Văn hoá không bao giờ là một hiện tượng thuần nhất. Sự
đan xen văn hoá có khi dẫn đến sự pha tạp, trộn lẫn, nhưng cũng có thể dẫn đến
sự kết tinh, chưng cất nên những giá trị mới. Về mặt thời gian, khi cái cũ chưa
bàn giao cho cái mới, văn học có thể là nơi hội tụ của những tìm tòi cho sự chuẩn
bị chuyển tiếp thời đại. Còn về mặt không gian, khi một địa bàn trở thành ngả
ba đường của sự giao lưu văn hoá, thì văn học có thể là nơi hoà giải của những
xung đột tinh thần, nhằm tìm một tiếng nói cho sự chung sống giữa các nhóm người.
Ở xa, văn học thừa hưởng và hấp thụ những yếu tố của một
không gian văn hoá rộng: văn hoá phương Đông, văn hoá dân tộc. Ở gần, văn học
thừa hưởng và hấp thụ những yếu tố của một không gian văn hoá hẹp: văn hoá tộc
người, văn hoá vùng. Những vùng văn hoá giao nhau sẽ tạo ra những nét chung
trong văn học của từng vùng, đồng thời nó vẫn giữ lại những nét riêng làm căn
cước giúp ta nhận diện bộ mặt của từng vùng văn hoá, từ đó phân biệt “lãnh thổ”
trên bản đồ văn học. Công trình khảo cứu Hồ sơ Lục châu học của
Nguyễn Văn Trung là một nỗ lực đáng trân trọng nhằm khảo sát, phân tích và đi đến
khái quát về đặc điểm và sự phát triển của văn học Nam bộ trong bối cảnh văn
hoá-lịch sử nước ta đầu thế kỷ XX. Thiên nhiên, địa lý, phong tục, tập quán, lề
thói sinh hoạt ở vùng đất mới là cái nôi văn hoá hình thành nên tính cách con
người và tính cách văn chương ở đây, thể hiện qua tâm lý, hành động và ngôn ngữ.
Trong một phối cảnh văn hoá như vậy, chúng ta sẽ thấy sự
nối tiếp và gần gũi giữa Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Phi Vân ở nửa cuối thế kỷ XX
với Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Bửu Mộc, Nguyễn Chánh Sắt… ở nửa đầu thế kỷ đó. Và mặc
dù không thiếu những nét chung với những nhà văn cùng cộng đồng vận mệnh trong
thế kỷ đầy biến động này, ngay trong đề tài về cuộc sống ở nông thôn, sáng tác
của họ cũng có một khoảng cách nhất định với sáng tác của Võ Hồng, Nguyễn Văn
Xuân, Võ Phiến… ở miền Trung và Trần Tiêu, Bùi Hiển, Nguyễn Đình Lạp, Mạnh Phú
Tư… ở miền Bắc.
Nằm trong cấu trúc văn hoá, đạo đức là những quy luật
tinh thần hướng con người vươn đến điều Thiện, bao gồm những nguyên tắc ứng xử,
những chuẩn mực và quy phạm trong đời sống xã hội. Nói đến quan hệ giữa văn học
và đạo đức chính là nói đến quan hệ giữa cái đẹp và cái Thiện. Mỹ học truyền thống
phương Đông cũng như phương Tây luôn nhấn mạnh sự thống nhất của hai phạm trù
này và khẳng định văn học góp phần củng cố bầu không khí đạo đức của xã hội,
trong đó tình người, lương tâm, bổn phận, sự trung thực, lòng nhân ái, lẽ công
bằng… được đề cao. Ngược lại, khi xã hội vững chãi về phong hoá, đạo đức, thì
văn học sẽ tiếp nhận nguồn động lực để nói lên sự thật về cuộc đời và về lòng
người.
I. Kant quan niệm ý thức đạo đức là quy luật của bổn phận.
Có bổn phận được thôi thúc do sức mạnh và áp lực của dư luận từ bên ngoài; có bổn
phận được thôi thúc do ý thức của chính lương tâm từ bên trong. Từ đó, Kant
phân biệt hai loại hành động là hành động thích nghi theo bổn phận và hành động
vì bổn phận. Ông kêu gọi: “Hãy hành động sao cho nhân tính trong bản thân mình
cũng như nơi người khác luôn luôn được xem là cứu cánh và không bao giờ bị sử dụng
như là phương tiện” (Fondements de la métaphysique des moeurs,
Delagrave, Paris, 1971, p. 150).
Văn học gắn liền với ý thức đạo đức theo nghĩa thứ hai.
Đó là tiếng nói của bổn phận và lương tâm ngay cả khi không có áp lực của xã hội
và dư luận. Văn học khơi dậy sự ăn năn, cắn rứt của lương tâm con người về những
tội lỗi mà có thể không một toà án nào xử phạt được. Đó là sự sám hối, xưng tội
của con người với chính bản thân mình: con người tự kết án, tự biện hộ, tự phán
quyết và tự hoà giải với lương tâm mình. Có thể nói, ở nơi mà luật pháp, dư luận
xã hội không can thiệp được, thì văn học có khả năng khơi dậy và tỉnh thức
lương tri của con người.
Đạo đức là một thực thể luôn vận động và thay đổi theo sự
tiến hoá của xã hội chứ không mang một khuôn khổ bất di bất dịch. Nói đúng hơn,
trong đạo đức có phần căn cốt, bất biến; lại có phần biến đổi, thích nghi theo
từng thời đại. Chẳng hạn, ở thời đại nào con người chân chính cũng coi trọng
nghĩa vụ và danh dự; nhưng quan niệm về nghĩa vụ và danh dự thời nay không thể
giống với quan niệm thời Racine, Corneille… Cũng vậy, ở thời đại nào tình mẫu tử
cũng thiêng liêng, sâu nặng; nhưng mỗi thời lại có cách đối xử với người phụ nữ
khác nhau, và do vậy nhìn nhận vấn đề nữ quyền một cách khác nhau. Văn học tiên
phong đấu tranh cho nữ quyền chính là góp phần làm chuyển biến đạo đức theo hướng
tiến bộ.
Trong xã hội, tình trạng đạo đức suy đồi có thể dẫn đến một
loại văn học suy đồi nào đó; nhưng văn học chân chính luôn có ý thức phản kháng
lại sự suy đồi. Vì vậy, văn học là lương tri của xã hội ngay cả trong tình huống
bất lợi nhất. Văn học kiên trì bảo vệ những giá trị đạo đức vĩnh cửu hay đấu
tranh với những lề thói đạo đức cổ hủ không phải bằng những lời rao giảng thống
thiết mà bằng sự trải nghiệm của nhà văn và nhân vật của mình. Tiếp xúc với sự
trải nghiệm đó, bạn đọc sẽ tự rút ra cho mình những bài học về cách ứng xử đạo
đức mà họ tin là phù hợp với phẩm giá con người. Nhà văn cần tin rằng con người
tự mang phẩm hạnh bên trong mình. Văn học không dạy dỗ, mà là nâng đỡ, “hộ sản”
(maieutique), như phương pháp của Socrate, cho những phẩm hạnh đó có điều kiện
thuận lợi để xuất hiện.
Có liên quan đến cả văn học và đạo đức, giáo dục là hoạt
động nền tảng của văn hoá, đáp ứng nhu cầu cung cấp nguồn nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài và nâng cao dân trí, hướng đến mục tiêu đào tạo những con người có
nhân cách và năng lực nghề nghiệp. Một nền giáo dục toàn diện bao gồm giáo dục
tri thức, giáo dục đạo đức, giáo dục thể chất và giáo dục thẩm mỹ. Văn học có
vai trò quan trọng trong giáo dục đạo đức và giáo dục thẩm mỹ, là con đường đưa
con người vươn đến điều Thiện và cái đẹp; đồng thời cũng góp phần vào hai lĩnh
vực giáo dục kia, khi nó giúp con người nhận chân sự thật và vững vàng về mặt
tâm lý.
Từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây, không có một nền giáo dục
chân chính nào xem nhẹ văn học. Văn học giữ một vị trí then chốt trong hệ thống
các môn khoa học nhân văn ở nhà trường tiểu học, trung học và đại học. Trên những
chặng đường đời người ta có thể quên đi những định lý toán học, định luật vật
lý hay công thức hoá học; nhưng người ta sẽ nhớ mãi những bài văn hay được học
từ thời thơ ấu: nhớ ông đại tướng Carnot về trường cũ thăm thầy, nhớ cậu bé đeo
cặp sách ngang qua vườn Luxembourg một sáng mùa thu, nhớ người lãng du khắp năm
châu bốn biển nhưng vẫn thấy quê hương mình đẹp nhất… Văn học trong nhà trường
là sợi dây kết nối những tâm hồn như đã được thể hiện chân thành trong truyện
ngắn Tình nghĩa giáo khoa thư của Sơn Nam.
Một xã hội khủng hoảng về lý tưởng sẽ dẫn đến khủng hoảng
về giáo dục; mà một nền giáo dục khủng hoảng thường biểu hiện rõ nhất ở việc khủng
hoảng dạy và học môn văn. Vì vậy, những nhà giáo dục có trách nhiệm luôn quan
tâm đến việc cải tiến nội dung, chương trình, sách giáo khoa văn học và cả
phương pháp dạy văn. Dạy văn ở đại học là dạy nghề, là truyền đạt một khoa học,
cần sự phân tích nghiêm ngặt và lý giải hệ thống; còn dạy văn ở nhà trường phổ
thông là dạy người, là truyền đạt tình yêu cái đẹp, là giáo dục tình cảm. Dạy Văn
tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ở trung học không phải là làm một bài thuyết giảng
vô hồn về những điển cố, mà phải làm cho học sinh cảm được thần thái của một
bài văn đọc giữa khói hương để hiệp thông với linh hồn những người đã hy sinh
vì nghĩa cả. Đó là một nghệ thuật.
Môn văn học cần được đầu tư nhiều hơn nữa trong hệ thống
giáo dục quốc dân: xây dựng một đội ngũ viết sách giáo khoa có tài năng và tâm
huyết, tuyển chọn được những áng văn ưu tú để trao truyền cho thế hệ trẻ, đào tạo
một đội ngũ thầy cô giáo có năng lực và yêu nghề. Chỉ có như vậy thì tình yêu
dành cho văn học, và qua đó tình yêu cái đẹp mới được nuôi dưỡng và không ngừng
nâng cao.
Văn học là một kho tàng bao la, ngày mỗi ngày sinh sôi nẩy
nở. Văn học trong nhà trường là phần tinh hoa được chắt lọc, gồm những giá trị
đã được thời gian thử thách, phù hợp với thiên chức của giáo dục. Đó là vốn liếng
căn bản để con người làm hành trang tiếp tục khám phá, cảm nhận, chinh phục kiến
thức và vẻ đẹp của văn học ở ngoài nhà trường. Giáo dục cần chuẩn bị cho tuổi
trẻ một tâm thế nhạy bén, tự tin và tự chủ khi tiếp xúc với những sản phẩm của
thị trường văn học phức tạp ở bên ngoài, nhiều khi vàng thau lẫn lộn, để nhận
ra đâu là giá trị đích thực.
Sức hấp dẫn của một bộ sách giáo khoa văn học bậc phổ
thông trước hết là ở những tác phẩm được chọn lựa để giảng dạy, sau đó mới là ở
phần phân tích, bình giảng những tác phẩm đó. Cấu tạo chương trình với những
tác phẩm kém chất lượng thì dù soạn giả có là các chuyên gia bậc thầy, việc thu
hút học sinh yêu thích môn văn cũng là vô phương. Cho nên thiết kế được một
chương trình đào tạo môn văn hợp lý, có tính sư phạm là đã bảo đảm thành công một
nửa cho việc biên soạn sách giáo khoa, đặt tiền đề quan trọng cho cải tiến việc
giảng dạy môn học này. Rất tiếc, hiện nay, người ta tập trung công sức và tiền
của vào việc tổ chức biên soạn sách giáo khoa văn học mà không đầu tư thích
đáng cho việc biên soạn một chương trình phù hợp và nhất quán.
Theo thiển ý của chúng tôi, trong chương trình đó, chiếm
tỉ lệ áp đảo phải là những tác phẩm có giá trị bền vững, lâu dài, trong đó những
tác phẩm cổ điển phải giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Chương trình, cách dạy học,
cách ra đề thi hiện nay, tuy không quên lãng văn học cổ điển, nhưng vẫn ưu tiên
cho văn học hiện đại, với không ít tác phẩm chưa kinh qua thử thách của thời
gian, vô hình trung góp phần làm xóa nhoà ý thức về văn hoá truyền thống nơi học
sinh. Chúng tôi cũng không tán thành việc đưa các bài văn “nhật dụng” vào
chương trình ngữ văn, như ta thấy trong sách giáo khoa được biên soạn gần đây.
Đành rằng đọc những bài văn như vậy cũng là cần thiết, nhưng trong khi chương
trình luôn bị thầy và trò phản ánh là quá tải, thì người làm chương trình phải
cân nhắc để chọn lựa giữa văn học và cận văn học, giữa văn học tinh hoa và văn
học thực dụng. Đưa vào chương trình một bài báo chưa ráo mực của một quan chức
nào đó, điều đó cho thấy tính chất xu thời của của người soạn sách, sẽ dẫn đến
hậu quả tai hại là cắt đứt sợi dây truyền thông giữa các thế hệ cùng thụ hưởng
bộ sách giáo khoa đó.
Đặc điểm và chất lượng của nền giáo dục có thể được phản
ánh qua đặc điểm và tài năng của những nhà văn thụ hưởng nền giáo dục ấy. Một nền
giáo dục què quặt, phiến diện tất nhiên không thể sản sinh ra những nhà văn ưu
tú. Giáo dục cũng phát triển thuận chiều với văn học khi nó góp phần hình thành
một công chúng có thị hiếu thẩm mỹ cao, không loá mắt choáng ngợp trước những sản
phẩm văn học tầm thường, hào nhoáng. Công chúng đó có khả năng tiếp nhận những
tác phẩm văn học giàu hàm lượng trí tuệ, sẵn sàng ủng hộ, biểu dương hay ít ra,
biết chờ đợi và lắng nghe những tìm tòi thể nghiệm trong văn học.
Văn học và giáo dục, như vậy, cùng đồng hành trong việc
xây dựng một nền văn hoá đậm đà tinh thần dân tộc và sâu sắc ý nghĩa nhân văn.
Sự quan tâm đến lĩnh vực này sẽ làm lợi cho lĩnh vực kia và có tác dụng tích cực
đến nhiệm vụ xây dựng văn hoá và con người.
Cùng chia sẻ những giá trị đạo đức chung, nhưng mỗi dân tộc,
mỗi tộc người, thậm chí mỗi vùng đất có thể có những phong tục, tập quán riêng.
Tôn trọng bản sắc văn hoá cũng là tôn trọng những phong tục, tập quán đó và
không lấy phong tục nơi này làm chuẩn mực đánh giá phong tục nơi khác.
Ở Việt Nam đã hình thành cả một dòng văn xuôi phong tục với
những tác gia am hiểu sâu sắc đời sống nông thôn: Ngô Tất Tố với Việc
làng và Lều chõng, Trần Tiêu với Con trâu vàChồng
con, Mạnh Phú Tư với Làm lẽ và Sống nhờ, Bùi
Hiển với Nằm vạ, Nguyễn Đình Lạp với Ngoại ô… Tất
nhiên, tác phẩm có sức ám ảnh là nhờ trên cái nền của sự miêu tả phong tục đó,
nhà văn tái hiện những tình huống bi kịch của kiếp người. Viết về phong tục,
các nhà văn không chỉ làm công việc miêu tả đơn thuần, mà còn bày tỏ một thái độ
trước những phong tục tập quán đã lỗi thời, không còn phù hợp với thời đại mới
vì ngăn trở con người đi tìm tự do và hạnh phúc.
Thực tiễn tiếp nhận văn học cho thấy giữa phong tục và
văn học từng diễn ra những bất hoà, xung đột. Chẳng hạn, những tác phẩm có yếu
tố tính dục thường là nguyên cớ của mối bất hoà này. Ngay từ những năm 30 thế kỷ
trước, chính quyền thực dân Pháp đã ra lệnh tịch thu và tiêu hủy Hà
hương phong nguyệt truyện của Lê Hoằng Mưu với lý do “vi phạm thuần
phong mỹ tục”. Vào đầu những năm 70 chính quyền Sài Gòn cũng từng gây khó khăn
cho việc xuất bản Ngàn cánh hạc của Y. Kawabata với lý do
tương tự. Gần đây hơn, việc dịch và ấn hành Chiếc chìa khóa của
J. Tanizaki, Tình yêu thời thổ tả của G. Marquez, Tình
ơi là tình cuả E. Jelinek đã gây ra những cơn “sốc” văn hóa trong dư
luận. Bản dịch tiếng Việt tiểu thuyết Một nỗi đau riêng của Oe
Kenzaburo không ra mắt bạn đọc với nội dung trọn vẹn mà phải cắt mất một
chương, là một thí dụ khác.
Trong cấu trúc văn hoá, phong tục là yếu tố thường xuyên
biến đổi. Phong tục quy định ứng xử của con người nhưng chính con người lại làm
ra phong tục. Thời gian sẽ thử thách và bảo tồn những phong tục tốt đẹp như những
giá trị văn hoá, đồng thời điều chỉnh, sửa sang những phong tục tỏ ra chỉ thích
hợp với một không gian văn hóa và thời gian lịch sử nhất định. Trong lĩnh vực
này, công chúng nhìn vào thái độ của văn học để tham khảo cho một cách ứng xử
phù hợp.
Tóm lại, văn học luôn có mối quan hệ chặt chẽ với các
lĩnh vực khác nhau của văn hoá truyền thống. Có thể nói nhà văn đích thực là một
nhà hoạt động văn hoá, tác phẩm văn học là một sản phẩm văn hoá và người đọc là
một người thụ hưởng văn hoá. Trong thời đại ngày nay, đa số quốc gia đều là xã
hội đa văn hoá, văn học vì vậy cũng đa dạng như văn hoá. Chính sách đối với văn
học là một phần của chính sách văn hoá mà tiêu điểm là con người với những nhu
cầu tinh thần ngày càng phát triển, và nói theo Jacques Rigaud, nó hướng đến việc
tìm kiếm “một ngôn ngữ chung giữ cho chúng ta không quay trở lại thời kỳ man rợ”.
HUỲNH NHƯ
PHƯƠNG
Theo Tạp chí Nhà
văn