1. Nỗi nhớ, theo tôi chính là giá trị tinh thần đầu tiên
mà Tạo hóa đã ban cho các sinh linh. Nỗi nhớ giúp chúng ta có những nhận biết
và kiến thức đầu tiên về thế giới, rồi tiếp tục tái hiện những nhận biết ấy, để
trở thành hành trang mỗi ngày cho đời sống con người. Từ khi còn là một đứa trẻ
lọt lòng, nỗi nhớ khiến ta phân biệt được những người lạ và người quen, nỗi nhớ tạo ra những mối dây liên kết thẳm
sâu và thiêng liêng giữa đứa trẻ với mẹ cha, ông bà, anh chị em ruột thịt. Thế
nên sau này, khi những người thân yêu lần lượt rời xa chúng ta về thế giới bên
kia, thì trong tâm hồn chúng ta, bao bóng hình ấy đều trở về cùng nỗi nhớ:
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa/Miệng
nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương (Ca dao), Còn nhớ những ngày ấy, những đêm trường
giá lạnh. Và cha nằm ôm con, sưởi ấm những canh dài (Tình cha – Ngọc Sơn). Càng lớn lên, thế giới tâm hồn càng phát triển
và hoàn thiện thì dường như nỗi
nhớ trong mỗi con người đều lớn hơn. Từ một đứa trẻ thành một thiếu niên rồi một
thanh niên, người con ấy xa dần vòng tay của mẹ, và nỗi nhớ hiện về
không chỉ là người thân mà còn
là cả bóng hình quê hương với bao kỷ
niệm ấu thơ. Nỗi nhớ quê hương ấy đã chảy từ bao áng thi ca cổ điển như Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, Tràng giang của Huy Cận… cho đến thi ca
hiện đại sau này: Quê hương
là chùm khế ngọt/Cho con trèo hái mỗi ngày/Quê hương là đường đi học/Con về rợp
bướm vàng bay/Quê hương là con diều biếc/Tuổi thơ con thả trên đồng/Quê hương
là con đò nhỏ/Êm đềm khua nước ven sông (Quê hương – Thơ: Đỗ Trung Quân, Nhạc: Giáp Văn Thạch). Tôi xa quê hương bao năm tháng qua. Nhưng
trong trái tim không bao giờ xa. Lời mẹ ru con hiu hiu trưa hè. Mùa lụt nước lũ
bắt cá giữa đồng (Quê hương tuổi thơ tôi – Từ Huy).
Mỗi con người
từng gặp, mỗi vùng đất đã đi qua đều có thể trở thành nỗi nhớ: Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ/Nơi
nào qua lòng lại chẳng yêu thương/Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất
đã hóa tâm hồn (Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên). Và đâu chỉ có nhớ
con người, nhớ không gian, nhớ thời gian, những con vật nuôi của chúng ta cũng
trở thành nỗi nhớ: Tao chờ mày đã lâu/ Cơm
phần mày để cửa/Sao không về hả chó?/Tao nhớ mày lắm đó/ Vàng ơi là Vàng ơi! (Sao không về Vàng ơi – Trần Đăng Khoa).
Đời sống văn
hóa của người Việt còn không thể không nhắc tới hành động “nhớ ơn”. Từ
trong ca dao, người xưa đã có lời khuyên răn: Ơn ai một tấc chớ quên/Nợ ai một tấc để bên dạ này. Một đứa trẻ từ
nhỏ luôn được dạy bảo phải nhớ ơn ông bà cha mẹ, tiếp đến khi trở thành học
sinh lại được giáo dục nhiều hơn về lòng nhớ ơn, chẳng hạn nhớ ơn những người đã ngã xuống vì độc lập tự do của Tổ
quốc, nhớ ơn những anh hùng liệt sĩ, đời đời nhớ ơn Bác Hồ vĩ đại… Giản dị hơn,
mỗi chúng ta đều được giáo dục phải nhớ ơn tất cả những người đã từng giúp đỡ
mình trong cuộc đời, như Chế Lan Viên từng viết: Con nhớ mế lửa hồng soi tóc bạc/Năm con đau mế thức một mùa dài/Con với
mế không phải hòn máu cắt/Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn
nuôi.
2. Về nỗi nhớ
trong tình yêu đôi lứa, có lẽ đây là một trong những nỗi nhớ làm tốn nhiều
giấy mực nhất của mọi dân tộc, mọi thời đại. Tất cả những câu chuyện tình trên
cuộc đời này, dù hạnh phúc hay xót xa, dù gần gũi hay xa xôi, dù suôn sẻ hay
trái ngang trắc trở, đều để lại trong lòng những người yêu nhau cảm xúc về nỗi nhớ. Ôi nỗi nhớ muôn hình
vạn trạng, có nỗi nhớ rạo rực bồi hồi, có nỗi nhớ phấp phỏng da diết, có nỗi nhớ
cồn cào cháy bỏng, có nỗi nhớ lặng lẽ âm thầm. Khi người con gái nhớ người con trai, hình như cũng có những nét thật riêng biệt. Từ
trong ca dao, nỗi nhớ ấy đã thổn thức nghẹn ngào: Khăn thương nhớ ai/Khăn rơi xuống đất/Khăn thương nhớ ai/Khăn vắt lên
vai/Đèn thương nhớ ai/Mà đèn không tắt/Mắt thương nhớ ai/Mà
mắt không khô. Sang đến
thơ hiện đại, nỗi nhớ của người con gái thẳm sâu, khắc khoải, bền bỉ thủy
chung: Con sóng dưới lòng sâu/Con sóng trên mặt nước/Ôi
con sóng nhớ bờ/Ngày đêm không ngủ được/Lòng em nhớ đến anh/Cả trong mơ
cũng thức (Sóng - Xuân Quỳnh). Nỗi nhớ của người con gái khiến cho ta mủi
lòng rưng rưng bởi sự mong manh, cần
được nương tựa và che chở: Em nhớ anh/ Như nhớ linh hồn mình/Một hôm nắng
vàng bỏ chơi xa/ Để lại xác thân này
ngơ ngác?/ Em kêu anh/Như tiếng con nai tác/Vọng qua triền đồi mơ... (Nhớ - Hàm
Anh). Ngược với nỗi nhớ của người con gái, nỗi nhớ của người con trai thường được
diễn tả như một bùng cháy dữ dội, một mãnh liệt thiêu đốt: Nhớ em như một
vết thương/Trong lòng như vỡ mảnh
gương trong lòng/Tay cầm cốc thủy tinh trong/Trong tay bóp nát máu ròng
ròng sa (Xuân Diệu), Em xa quá bóng đêm thì vây bủa. Nỗi nhớ không chép được
thành lời. Rồi sẽ cũ những vần kỷ niệm. Kéo anh về vẫn chỉ em thôi...(Lúc em xa
– Hồng Thanh Quang). Nỗi nhớ trong ái tình, đôi khi được diễn tả một cách tha
thiết và vô vọng hơn, bằng hai chữ
tương tư: Quân tại Tương giang đầu/Thiếp tại Tương giang vĩ/Tương tư bất tương
kiến/Đồng ẩm Tương giang thủy (Chàng thì ở tận đầu sông/Cô đơn mình thiếp
cuối dòng chơi vơi/Nhớ thương chẳng
thấy mặt người/Uống chung con nước trông vời Tương giang), Gió mưa là bệnh của
giời/Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng. Khi đôi lứa đã thành vợ thành chồng,
nỗi nhớ của tình yêu khi đó lại có thêm nhiều màu sắc. Có nỗi nhớ của vợ với chồng:
Nhớ chàng như mảnh trăng đầy/Đêm đêm
vầng sáng hao gầy đêm đêm (Tự quân chi xuất hĩ – Trương Cửu Linh, Ngô Tất Tố dịch).
Có nỗi nhớ của chồng với vợ: Tôi nhớ vợ tôi lắm/Xin anh về hai ngày/Nhà tôi ở
Mường Lay/Cuối con sông Nậm Rốm/Ngày kia tôi sẽ đến/Lại cầm súng được ngay/Tôi
sẽ bắn đúng Tây/Vì tay có hơi
vợ (Nhớ vợ - Cầm Vĩnh Ui).
3. Đứng về mặt
thi pháp, những diễn tả về nỗi nhớ trong các thời kỳ văn học sử cũng mang nhiều
sự khác biệt đáng kể. Ta hãy thử xem xét một trường hợp trong ca từ Việt. Cùng thể hiện nỗi nhớ
người yêu, nhạc sĩ Thẩm Oánh trước 1945 viết: “Nhớ nhung nhớ nhung ngợp trời.
Buồn vương khắp nơi. Gió trăng lạc lối. Nhớ nhung se sắt lòng quá. Phía
tây mây mờ. Sầu lắng trong mơ. Bóng
dáng mây huyền lướt như tóc ai, tha thướt buông phương trời, hầu lôi cuốn tim
ta rối bời. Đây nét mặt trong trăng âu yếm như mỉm cười cùng thế nhân sầu đầy
vơi. Nhớ nhung nhớ nhung ngợp trời. Tìm đâu bóng ai cho tâm hồn say.
Ngoài xa, mây nhớ trăng lững lờ lần trôi. Vườn tà huy chờ gió luyến than chiều
rơi. Bóng dáng tơ đào phai phương trời
xa xôi. Ai nhớ ai chăng là? Nào ai ai nhớ thương ai? Chập chùng mờ non tây đón
thăm chim xa về đây. Mịt mù quá mây đầy. Ai nhớ ai chăng là? Nào ai ai nhớ hình
ai? Hỏi ai ai nhớ ai chăng là? Nào ai nhớ thương ai?” (Nhớ nhung, rút từ Nửa thế kỷ tình ca, tập 1, NXB Trẻ
1996).
Gần nửa thế kỷ sau, cũng diễn tả về nỗi nhớ trong tình
yêu, nhạc sĩ Phú Quang có cách thể hiện ngôn ngữ hoàn toàn khác: “Nỗi nhớ dâng
đầy trong anh. Gương mặt em, nụ cười em, vòm ngực trắng. Tưởng như máu trong tim ngưng đọng. Nỗi nhớ dâng đầy
dâng đầy. Ôi, chẳng có dòng sông mặt biển nào ngăn cách, mà sao em không
thể đến bên anh. Để nỗi nhớ như con thuyền vượt sóng, đến bến bờ chỉ là giấc mơ. Căn phòng đêm nay câm lặng, sao
như lửa cháy bốn bề. Em ùa chạy như
lá khô gió cuốn, miên man trong nỗi đớn đau. Mà không thể ra ngoài nỗi nhớ.
Không thể ra ngoài nỗi nhớ đâu anh (Tuyển chọn ca khúc Phú Quang – NXB Âm nhạc,
HN, 1995).
Nếu như trong Nhớ nhung của Thẩm Oánh, ta bắt gặp một
hệ thống ngôn ngữ mang tính chất cổ điển đầy ước lệ thì ở ca khúc của
Phú Quang, cách diễn đạt đã hoàn toàn thay đổi. Những cách diễn đạt như: nhớ ngợp
trời, sầu lắng, dáng mây huyền, vườn tà huy, gió luyến, chiều rơi, bóng dáng tơ đào, non tây đón thăm chim xa có
thể nói ngày nay đã không còn thấy sử dụng nữa và bị xem là rất cũ. Dĩ
nhiên vào thời kỳ ấy, những cách diễn đạt này vẫn có thể là những “ngữ thời thượng”. Cho đến phần ca từ trong ca khúc của
Phú Quang, nhiều hình ảnh, biểu tượng và cách diễn đạt mới mẻ đã xuất hiện để khắc họa sâu sắc tâm lý
tình cảm của nhân vật, từ căn phòng câm lặng, gió khô lá cuốn, không thể ra
ngoài nỗi nhớ… Người nghe cảm nhận
được nỗi nhớ như có hình hài cụ thể, lúc thì da diết đê mê, lúc lại cồn
cào cháy bỏng, với nhiều kết hợp táo bạo mà trong ngôn ngữ ca từ của âm nhạc
lãng mạn trước 1945 khó lòng
có được.
Bàn về nỗi nhớ mãi mãi là không đủ, bởi như thi sĩ Nguyễn
Bính đã từng thốt lên: Ví chăng nhớ có như tơ nhỉ/Em thử quay xem được mấy
vòng?/Ví chăng nhớ có như vừng nhỉ/Em thử lào xem được mấy thưng? Một nhà thơ trẻ gần đây là Huyền Thư cũng viết: Nhớ
rất nhiều là nhớ được bao nhiêu? Có những nỗi nhớ siêu hình không bút mực
nào tả nổi, như khi ta đang ở một nơi
mà lại nhớ chính về nơi đó: Chiều nay có một người du khách/Ở Ngự Viên mà nhớ
Ngự Viên (Nguyễn Bính). Có nỗi nhớ như trong Kinh Thánh viết: “Tôi phải nhớ:
Tôi phải chết!”. Thế nhưng đồng hành cùng nỗi nhớ, con người ta còn cần
học cách để Quên. Đó là điều mà chúng tôi sẽ bàn tiếp trong một bài viết
khác...
ĐỖ ANH VŨ
Theo Tinh hoa Việt