Tháng 10.1992 sau
khi nhận sổ hưu từ cơ quan Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh, với tuyên bố:
“Tôi sẽ rời thành phố để đi chỗ khác chơi vì đã hoàn thành nhiệm vụ”, nhà văn
Trang Thế Hy đã tạo ra một làn sóng dư luận khá sôi nổi, không chỉ trong lòng
người hoạt động văn học nghệ thuật, mà cả trong dư luận chung rộng rãi.
Nhà văn Trang Thế Hy
Trong khi hàng vạn, hàng triệu người đang ngày đêm tìm mọi cách, mọi cơ hội để có mặt tại thành phố, dù là đang
trẻ tuổi hăng máu hay đang kiệt sức nghỉ hưu, thì ông, một người thành phố lại tuyên bố sẽ rời thành phố
về quê vui thú an nhàn ở tuổi gần 70. Có lẽ nào ông là người nghĩ khác?
Thật ra chuyện
đi hay ở với nhà văn không phải là chuyện quan trọng. Vốn là người sinh ra từ
vùng ngoại vi thị xã Bến Tre trong những tháng năm dài nô lệ, khi Cách mạng
tháng Tám thành công, ông đã là chàng trai 21 tuổi. Ông tích cực tham gia mọi
sinh hoạt của tổ chức đoàn thể tại địa phương. Với vốn sở học của mình, lý ra
ông đã trở thành ông này ông nọ trong hàng ngũ cách mạng, nhưng không, ông vẫn là ông, con người điềm đạm nho
nhã với cung cách đằm thắm, ngay cả trong lời ăn nết ở.
Gần 50 năm tham gia hoạt động cách mạng, chàng thanh niên
đã rời làng quê huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre ngày nào trong sục sôi đấu tranh
nay trở lại quê nhà với cuộc sống thật dịu êm bên dưới rặng dừa trong ngôi vườn không nhiều cây trái,
ngày ngày uống trà, đọc sách, đàm đạo văn chương với bạn văn xa gần mỗi lần ghé
lại hoặc chuyện trò thời sự cùng những người đồng hương già trẻ. Cuộc sống dường như trôi đi rất chậm trong ngôi nhà
ấy, đôi khi tưởng như rất buồn tẻ, nhưng không, nó vẫn ăm ắp nỗi đau thế sự
xoay vần, vẫn đau đáu niềm lo về người này kẻ kia trong làng văn trận bút.
Tôi được biết
về ông khá trễ, có lẽ là trễ nhất trong số những người cùng chung cơ quan Hội
Nhà văn thành phố. Trước đó khoảng gần chục năm, tôi cũng biết sơ về ông, không
phải bằng con người thật, mà bằng văn chương, với những truyện ngắn như được
trau chuốt từng chữ đăng trên báo Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh - nơi coi như
địa chỉ tập hợp anh hào sau một thời ly loạn của thành phố.
Ở đó có Nguyễn
Quang Sáng, Anh Đức, Phạm Tường Hạnh, Mai Văn Tạo, Chim Trắng, Lê Văn Thảo,
Nguyễn Chí Hiếu, Hoài Anh, Trần Nhật Thu, Lê Dụng và nhiều người khác nữa. Họ
là những người ở rừng về, từ Bắc vô, đang tạo ra một chân dung văn nghệ thành
phố mới giải phóng với nhiều hình ảnh sống động, tuy còn nhiều khó khăn
nhưng sinh động và tươi mới.
Mang tiếng là
người của báo, nhưng ông viết không nhiều, lâu lắm mới thấy xuất hiện một truyện
ngắn, có truyện đăng tới hai, ba kỳ báo, nhưng nhiều người không gọi ông là nhà
văn Trang Thế Hy, mà họ thường gọi là anh Tư Sâm, hay như chúng tôi hay gọi là
chú Tư. Chú Tư có cách nói, điệu cười, dáng đi, kiểu đứng không có gì
khác người, nhưng vẫn có cái gì
đó thực sự nho nhã, nền nếp, khác biệt với những người khác. Sự khác biệt ấy không làm cho ông cách
xa đám đông, tách biệt tập thể mà như một nốt luyến trong âm nhạc, nó làm giàu
có đời sống vốn nhiều thanh điệu thường bủa vây chung quanh.
Bằng cách nói
rõ ràng, mạch lạc, chậm rãi, không thừa ít thiếu, nhà văn có cuộc sống
đơn chiếc trong khu tập thể 190 Nam Kỳ Khởi Nghĩa tưởng như rất buồn. Nhưng
không phải thế. Phòng ông, chỗ ông luôn luôn ngăn nắp, đầy ắp tiếng cười, giọng
nói trong những buổi rượu trà với người đồng điệu. Căn phòng nhỏ, có cửa sổ nhìn ra con đường vào thành
phố ngập tràn tiếng xe dù lúc khó khăn chật vật thiếu thốn mọi bề vẫn là nơi lui tới đi về của ông - một người mài
chữ ra truyện.
Không biết ông
chuyển biên chế về Hội Nhà văn lúc nào mà khi tôi chuyển ngành về Hội Nhà văn đã
thấy tên ông trong danh sách những cán bộ thuộc cơ quan cùng với Sơn Nam, Mai Văn Tạo, Trần Thanh
Giao, Thanh Giang, Lê Giang, Trần Mạnh Hảo.
Tôi chỉ nghe về
ông qua những người đã từng sống cùng ông trong những năm tháng ở rừng
như Nguyễn Quang Sáng, Diệp Minh Tuyền, Chim Trắng, Lê Văn Thảo - những người
luôn luôn gọi tên ông bằng cái tên Anh Tư rất đỗi thân thương và trìu mến. Nào là đi công tác với Anh Tư là
khỏi lo bị đói, khỏi sợ thiếu cái ăn, đôi khi được ăn sang và ăn ngon nữa, vì
anh Tư là người chịu khó chế biến
các món nhậu ở rừng thuộc hàng bá cháy, và đặc biệt là anh Tư có tài săn thú rất
hay.
Tài săn thú thì
tôi chưa chứng kiến, nhưng tài chế
biến món ăn của anh Tư thì tôi cũng vinh dự được đôi lần tham gia nhân dịp
anh tiếp một vài ông bạn văn chương trên đường hành phương Nam ghé thăm anh với rất nhiều tình cảm.
Những món ăn ở nhà một người đàn ông
đơn chiếc thường không nhiều nhặn gì nhưng được chế biến bởi một người sành ăn nên rất đậm đà và thi vị.
Điểm đặc biệt
nổi bật nhất trong bữa ăn ở nhà anh Tư Sâm là rượu. Rượu được anh Tư tinh tuyển
từ những chuyến đi thực tế, từ những món quà bằng hữu tâm giao nên không lẫn
vào đâu được. Trong những năm tháng khó khăn chung, anh Tư vẫn ung dung trà rượu
với bằng hữu bằng những sưu tập của mình, quả là một chuyện kỳ công.
Những ngày còn ở thành phố hay hơn 20 năm nay “đi chỗ khác chơi” ở quê xứ Bến Tre,
anh Tư vẫn chăm chú đọc và đọc thật nhiều những cây bút trẻ. Quả là không xa lạ
khi người viết đồng bằng sông Cửu Long luôn xem ông như ông thầy, một bậc đàn
anh đáng kính. Mỗi lần có dịp đi lên khu vực miền Trung Nam Bộ là hầu như ai
cũng sắp xếp một chuyến gặp gỡ với nhà văn Trang Thế Hy tại ngôi nhà nhỏ ngoại
vi thị xã Bến Tre của ông.
Những Ngô Khắc Tài, Nguyễn Ngọc Tư, Phạm Trung Khâu, Trịnh Bửu Hoài và nhiều người
khác nữa luôn xem ngôi nhà nhỏ ở ngoại vi tỉnh lỵ Bến Tre là một nơi chốn thân
thương. Bởi ở đó họ được tiếp đón không phải bằng tình cảm của người trên kẻ trước, mà bằng tình cảm
nồng ấm ruột thịt như cha con ông
cháu một nhà. Sự gần gũi, thân thiết của ông là sự gần gũi thân tình rất
mực, không kẻ cả, khoa trương, không
lão làng văn giới.
Có thể nói trong gần 70 năm cầm bút sáng tác của mình, dù
khởi sự bằng thơ, tiếp đến là dịch
thuật, sau này được biết đến như một nhà văn với nhiều bút danh khác nhau như
Phạm Võ, Văn Phụng Mỹ, Triều Phong, Vũ Ái, Văn Minh Phẩm và Trang Thế
Hy, nhưng số lượng tác phẩm xuất bản
của ông không nhiều.
Có thể kể đến
như Nắng đẹp miền quê ngoại (1964), Mưa ấm (1981), Người yêu và mùa thu (1981),
Vết thương thứ Mười ba (1989), Tiếng khóc và tiếng hát (1993), Nợ nước mắt và
những truyện ngắn khác (2001) và tập thơ Đắng và ngọt (2009). Năm 2011, khi Nhà
xuất bản Trẻ tái bản và đưa tập truyện ngắn Vết thương thứ Mười ba vào trong tủ
sách Mỗi tác giả Một tác phẩm, tôi đã có dịp chứng kiến sức làm việc
không biết mệt mỏi của ông.
Ông đã ngồi lại chỉnh sửa từng trang bản thảo, bỏ chữ này
thêm chữ kia vào từng trang sách, vào từng truyện ngắn với mong mỏi là bạn đọc
được tiếp nhận một văn bản có trách nhiệm của nhà văn - một công việc mà tôi thấy
những nhà văn lớn tuổi thế hệ trước hay làm như Bình Nguyên Lộc, Sơn
Nam và nay là Trang Thế Hy.
Trong nhiều lần
trò chuyện với nhà văn, điều tôi nhận ra ở ông là tấm lòng của người ăn quả nhớ người trồng cây, là tấm lòng
với người nông dân Việt. Ông thường
nói chúng ta lớn lên từ nông dân, nông thôn, rồi lại xem nông dân là bạn, nhưng
đối xử với người nông dân chưa bao giờ là bạn cả. Hạt gạo, con tôm, con cá do
người nông dân một nắng hai sương làm ra đã làm giàu cho biết bao nhiêu
người buôn bán (cả bán hàng hoá lẫn
bán chức quyền), cho nhà nước nhưng bù lại người nông dân được gì. Họ vẫn
sống trong những điều kiện thấp kém nhất và luôn luôn được đối xử như những người...
hèn kém nhất.
Tôi nhớ khi ký tên giới thiệu tôi vào Hội Nhà văn Việt
Nam cùng với nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhà văn Trang Thế Hy còn chú thích thêm
bên cạnh bút danh của mình là nhà thơ Phạm Võ. Hỏi ông vì sao lại đưa tên Phạm Võ vào đây thì ông nói nếu
không người ta sẽ nói là hai thằng
cha làm văn đi giới thiệu một tay nhà thơ vào Hội thì kỳ lắm.
Thì ra là vậy. Ông cẩn trọng và kỹ lưỡng trong từng hành động, lời nói và ngay cả việc
làm. Bởi theo ông điều còn lại của nhà văn là tác phẩm, mà cái còn lại của
tác phẩm là gì nếu không là ngôn ngữ. Chính ngôn ngữ quyết định tác phẩm đó có
sống được với thời gian, với bạn đọc hay không. Bất chợt tôi nhớ đến bài thơ Bứt đứt sợi chỉ hồng trong tập thơ Đắng
và ngọt của ông. Bài thơ như ông từng mở ngoặc là lời một người con gái có người
yêu là nhà thơ. Bài thơ như sau:
Hồi mình
mới yêu nhau, cây kéo kiểm duyệt tạm trú trong đầu anh như khách không mời mà đến
Chỉ thỉnh thoảng nó mới e dè cắt bỏ một vài bông hoa tư duy nhỏ nở ra trên trang viết của anh
Nó ái ngại
thấy anh ứa lệ nhìn những giọt nhựa tươi ứa ra từ những cánh hoa được cắt xén
Từ ái ngại
nó chuyển qua thương anh rồi tội nghiệp anh như một nhà thơ nhát gan
Bây giờ cây
kéo kiểm duyệt không phải là khách, nó có hộ khẩu thường trú trong trái tim anh
Trước sự dửng
dưng vô cảm của anh, nó cắt xén không thương tiếc những bông hoa cảm nghĩ của
anh, kể cả những búp chưa kịp nở
Nó lạnh
lùng nhưng đôi khi cũng nói. Nó không nói anh nhát gan, nó nói anh hèn...
Một bài thơ
nói nhiều điều về sự sáng tạo, về thói quen và nhiều thứ khác mà chúng ta cứ vô
tình cho nó tự tiêm nhiễm, tự đầu độc mình trong quá trình sống với con
người. Một sự cảnh tỉnh về thói quen
trong nếp nghĩ suy phần nào khá đơn giản của nhiều người trong xã hội
chúng ta.
TP Hồ Chí Minh,
Tháng 6.2013
PHẠM SỸ SÁU
ĐỌC THÊM VĂN CHƯƠNG
PHƯƠNG NAM: