Nhà văn Trần Kim Trắc
Nhà văn Trần Kim Trắc sinh năm 1929, tại xã Lương Hòa Lạc,
huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang. Năm 17 tuổi, ông tham gia cách mạng trong đội
trừ gian. Bị giặc bắt, ra tù, ông vào bộ đội làm lính tiểu đoàn 307 nổi tiếng.
Khởi đầu con đường văn nghiệp với truyện ngắn Cái lu được giải thưởng của Hội
Nhà văn Việt Nam năm 1954.
Tập kết ra Bắc, ông về công tác tại phòng Văn nghệ quân đội.
Rồi một cú sốc bất ngờ, buộc ông trở lại đời thường dân. Ông vui vẻ chấp nhận bằng
một câu rất hóm hỉnh: “Vậy là cái lu, tuy không bị vỡ, nhưng cũng bị sứt
mẻ”.
Và ông đã tạm dừng công việc viết lách, dồn hết tâm trí,
sức lực cho cuộc mưu sinh vất vả. Người lính Tiểu đoàn 307 ngày nào kinh qua đủ
nghề: thợ sơn tràng, bốc vác, làm công nghiệp thực phẩm và trụ lại ở nghề nuôi
ong định mệnh.
Đoạn trường lưu lạc ông trải qua, có lẽ đối với người
khác thì đó là những ngày tháng dài lê thê, những năm cay đắng ảm đạm, nhưng nỗi
cay đắng, muộn phiền dường như không có chỗ bám rễ trong tâm hồn ông. Ông đã sống
một cách bộc trực, thẳng thắn, phóng khoáng của một người Nam bộ chính gốc. Vì
thế những gì ông đã trải qua, đã chiêm nghiệm đều để lại dấu ấn trong những
trang văn ông viết, thấm đẫm triết lý sống của ông.
Ông đi nhiều, cả vùng đồng bằng Bắc bộ trù phú, những
cánh rừng bạt ngàn Việt Bắc, Tây Bắc đều có dấu chân ông trên những dặm dài
không ngưng nghỉ. Ông theo những người thợ sơn tràng đốn cây, xẻ gỗ, đóng bè
xuôi sông Lô, sông Hồng, vượt qua những ngềnh đá, những mùa mưa lũ... Ông lặn lội
đi theo những đàn ong trong mùa làm mật. Ông đã vắt kiệt đời mình để sống.
Như một chàng lãng tử, ông sống cùng núi rừng với những
mùa hoa dại của núi ngàn. Từ hương và hoa ấy - ong làm mật và sinh nở bầy đàn,
còn ông suy tư và chiêm nghiệm để gửi vào các trang viết sau này.
Sau 41 năm phiêu bạt, sống đời thường dân vất vả, ông đã
có: Ông Thiềm thừ (Giải thưởng Hội Nhà văn 1995), Hoàng
đế ướt lông bào (1996), Học trò già (1997), Trăng
đẹp mình trăng (1997), Con trai ông tướng (1998) Chuyện
nàng Mimô (1999) mà như ông đã có lần bộc bạch: “Là nợ phải trả
thôi. Nợ xương máu đồng đội tôi ở Tiểu đoàn 307, nợ một người cầm bút đối với
cuộc đời, nợ với bản thân tôi. Payer les dettes sociales (trả nợ xã hội). Nợ cuộc
đời là nợ cơm áo, nợ văn chương là nợ ký ức”.
Ký ức sống dậy trong tâm tưởng và canh cánh bên lòng ông
là một món nợ. Món nợ thánh thiện, chỉ có một trái tim nồng cháy, đôn hậu của một
con người từng trải, một tấm lòng sáng trong mới hòng mong trả được phần nào...
Ông viết một cách đam mê, quyết liệt... những tháng ngày ông đã trải qua, những
con người ông đã gặp, những mảng đời hẩm hiu vò xé trái tim ông. Và máu - máu
những người lính - đồng đội của ông giục giã ông viết.
Là dân Nam bộ chính gốc, “lớn lên ở vùng đất phù
sa, “bơi lội” thoải mái ngay giữa vùng ngôn ngữ của bà con Nam bộ, cảm xúc cũng
từ ấy mà ra, nên nghĩ gì viết nấy chứ không có ý thức sẽ chuyển đổi theo dòng
văn học, văn hóa cho dù bình dân hay bác học nào cả” đó là cách nhà văn Trần
Kim Trắc lý giải về phong cách văn chương của mình.
Trong đời sống văn chương muôn giọng điệu, ông đã chọn
cho mình dòng văn học bình dân và về thân phận, tình yêu của những người bình
dân. Thế giới quan của người dân Nam bộ hiền hòa, dễ thương, trọng nghĩa khinh
tài..., đời sống hết sức phong phú, lắm tình lắm cảnh của người đồng bằng đã in
đậm trong sáng tác của ông.
Nhà văn Trần Kim Trắc đã bước vào tuổi tám mươi, không
còn sức khỏe và điều kiện để đi nhiều, tiếp xúc nhiều, nhưng ông lại có cách tiếp
cận cuộc sống của riêng mình: “Bây giờ… quanh quẩn chỉ mấy mét vuông
trong nhà và cái tiệm bán mật ong, sữa ong chúa, lại thấy đề tài để viết nằm
ngay trước thềm nhà chứ đâu xa xôi”.
Và từ vuông thềm ấy, ông đã viết tiếp những trang văn nồng
ấm lẽ đời, tình người.
CỎ MAY
VĂN NGHỆ TIỀN GIANG