Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền
Tuy nhiên cũng
phải ghi nhận với ít nhiều tiếc rẻ là lối thơ Thanh Tâm Tuyền không có người thừa
kế. Bản thân Thanh Tâm Tuyền về sau, trong tập Thơ ở đâu xa cũng trở về với những
thể thơ truyền thống. Nhưng đây là những bài thơ làm trong lao lý, trong
những hoàn cảnh đặc biệt, không cho phép chúng ta suy diễn về lý thuyết. Dù sao
ông đã mở ra những chân trời mới và cách tân quan niệm thi ca.
***
Câu thơ, bài
thơ mới, đọc qua thấy ngay. Câu văn, cuốn truyện mới, khó nhận ra hơn. Người bình
luận phải phân biện: mới so với cái gì, và mới ra sao. Nhưng điều cụ thể nhất lại là: người đọc đương thời
có nhận ra nét mới ấy không?
Thưa rằng có.
Nhà văn Nguyễn Quốc Trụ, 1973, trên báo Văn, số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền đã
dẫn, có một bài viết căn cơ trình bày giá trị, nghệ thuật và tính chất súc tích
của truyện Bếp lửa, 1957. Ông trích dẫn cặn kẽ nhiều văn bản, nhiều tham khảo,
để lại một chứng từ chính xác[2].
Tôi còn một chứng từ riêng: bạn tôi là Đinh Ngọc Mô, nhiều
người biết vì có thời phụ trách mục Đố vui để học trên truyền hình Sài Gòn,
quen nhau từ 1965 tại Đà Lạt, gặp lại nhau 1970 tại Paris. Lúc ấy, Mô sống vất
vả, lang bang, đi đàn hát trong các nhà hàng Việt Nam để mưu sinh. Một tối về
khuya, dọc Boulevard des Italiens, Mô đã đọc thuộc lòng cho tôi nghe những
trích đoạn dài của Bếp lửa mà anh tâm đắc và cho là tân kỳ. Thuộc thơ Thanh Tâm Tuyền đã là khó, thuộc
văn xuôi lại không dễ. Vắng tin nhau khá lâu, có người mách là Mô đã qua đời,
đã tự tử bên Canada. Tôi không muốn tin, nhưng mỗi lần mở truyện Bếp lửa, là tôi tìm lại những đoạn Mô đã đọc,
cho đến bây giờ sách đã vàng ố, tả tơi, rách nát như cuộc đời của chúng tôi. Trước khi kể lại chuyện này, tôi
rà lại tin tức, thì bè bạn bốn bể năm châu đều xác nhận chuyện buồn. Mà
tôi vẫn chưa tin, và muốn hỏi Mô: Mô
ơi, thật à? Cậu ấy vui tính, hay đùa.
Bạn đọc cho là
tôi lạc đề. Thân tình thì biết tôi chỉ mới lạc dòng, lạc giọng, mà không
lạc đề.
***
Tiềm năng độc giả thời đó là học sinh trung học: sinh
viên đại học chưa nhiều. Và chúng tôi thiếu sách để đọc. Văn chương quốc ngữ thời
đó, bỏ ra một kỳ nghỉ hè, có thể đọc hết toàn bộ.
Sách Tự Lực, Vũ Trọng Phụng thì đọc cả rồi… Các tác gia ở
lại miền Bắc ít được tái bản. Và chúng tôi khao khát cái mới, các truyện ngắn của
Doãn Quốc Sỹ, Dương Nghiễm Mậu, Mai
Thảo, Thao Trường. Những “Chiếu hoa cạp điều”, với “Hương gió lướt đi”. Thậm
chí, chúng tôi còn bất công với cái cũ: tạp chí Văn hoá Ngày nay của Nhất
Linh bán chạy được hai số, rồi thôi. Đoán già đoán non: các vị Đinh Ngọc Mô,
Nguyễn Quốc Trụ, cũng như tôi, đã đọc Bếp lửa trên ghế trường trung học, trước khi hư thân mất nết ở nơi
khác.
Bếp lửa là một
truyện vừa, vừa một trăm trang. Thanh Tâm Tuyền viết liền mạch, rất nhanh,
trong vài tháng, xong tháng 10-1956, đưa đi kiểm duyệt và xuất bản ngay[3].
Không có độ lùi để sửa chữa. Sau này, khi tái bản, ông muốn sửa chữa, nhưng
không làm được và viện dẫn Malraux: người ta không viết lại được một cuốn sách.
Nhưng có một truyện ngắn “Đại lộ”, nội dung na ná,
in lại trong tập truyện Khuôn mặt, 1964.
Truyện được viết
từ ngôi thứ nhất “tôi”. Người kể, “tôi” tên Tâm, cùng tên với tác giả, đi dạy học tại một trường Công giáo tại
Bắc Ninh, còn tác giả dạy tư
thục ở Hà Đông, khoảng 1952.
Tuy nhiên Bếp
lửa không phải là tự truyện, đại khái như tác phẩm Kẻ dưng, l’Etranger của
Albert Camus, bắt đầu bằng câu nổi tiếng: “Hôm nay mẹ tôi mất”, nhưng chính bà mẹ Camus lại sống lâu hơn tác giả.
Trong Bếp lửa, Tâm mồ côi bố từ nhỏ, sau đó mồ côi mẹ, trong khi bà cụ tên thật
là Thạch Thị Kim thọ rất lâu, ở Long Khánh. Tính cách mồ côi ở đây là một ẩn dụ,
như ở Kẻ dưng hay Cũng đành của Dương Nghiễm Mậu sau này.
Không phải là
tự truyện, nhưng Bếp lửa phản ánh tâm trạng tác giả, và một số thanh niên đồng
lứa vào thời điểm trước hiệp định Genève, 1954, tại Hà Nội, và vùng phụ cận dưới
sự kiểm soát của Pháp. Chủ yếu là những nét chấm phá nhẹ nhàng, nhưng rất sắc về
tâm thức chính trị của con người lúc đó qua những nhân vật: ông Chính, đảng
viên Quốc dân Đảng, còn hoạt động; Bảo có tham dự phong trào Ngũ xã nhưng nay đã tuyệt vọng; Đại say đắm
chủ nghĩa mác-xít và chuẩn bị ra khu; Hoà nhân viên Phòng nhì; Ngọc hoàn toàn hư vô và chối từ tổ quốc… Giữa họ là những
nhân vật nữ, hiền lành, vô tội, như chị em Thanh và Minh, em họ Tâm; Hạnh; Thịnh
vào ra giữa hai vùng… Còn Tâm? Anh xê dịch giữa đám người đó, không thân
không sơ, và nói như Meursault, nhân
vật Kẻ dưng: không biết rõ mình muốn gì, nhưng biết rõ những điều mình không muốn. Khi
Tâm bị ông hiệu trưởng cho thôi việc, “ngạc nhiên một chút rồi rửng rưng ngay.
Tôi không hỏi vì cớ gì ông muốn tôi nghỉ việc cũng như ông đã quên không nói cho tôi biết… Tôi
cũng chẳng buồn quan tâm. Tôi nhẹ nhõm vô cùng và ngủ một giấc rất say” (tr.
90).
Trong thế giới ấy, quan hệ tình cảm cũng mong manh, sắc sắc
không không, như giữa Tâm và Thanh,
một cô em họ, cũng mồ côi cha mẹ. “Đôi khi tôi nghĩ tôi có thể yêu Thanh và che chở cho Thanh, giây thân thích
giữa cúng tôi không đáng kể (…) nhưng chưa bao giờ tôi nói ý nghĩ của
tôi cả” (tr. 12).
Quan hệ tính dục cũng nhẹ nhàng thôi. Tâm gặp lại Hạnh, một
cô bạn học cũ, đi cùng một chuyến xe chở hàng từ Bắc Ninh về Hà Nội. "Đến
Hà Nội, mưa lớn hơn, chúng tôi cùng
đi ăn cơm với nhau. Và đêm ấy tôi ngủ với Hạnh ở khách sạn" (tr. 72). Chấm
dứt chương 4. Bước sang chương 5: "Tôi có cùng về Hà Nội với Hạnh một vài
lần. Gần nhau, tôi nhận thấy chiến tranh – hay chỉ cần sự đe doạ của chiến
tranh, tổng quát là sự khủng bố tinh thần – đã thổi vào máu Hạnh sự say
đắm nhiệt tình trong yêu đương (…). Sau mỗi lần như thế, khi lấy lại bình thường, Hạnh có vẻ ngượng ngùng. Có một lần
nằm cạnh tôi, Hạnh nắm tay tôi để lên ngực nàng nói: Anh có khinh em
không?" (tr. 76).
Dĩ nhiên là
các vị Nam Tào văn truyện kiêm Bắc Đẩu lịch sử sẽ có người bắt bẻ, hạch hỏi:
chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, hay bảo vệ tự do, chỉ có
kích thích tính dục người phụ nữ hay sao? Bếp lửa là một trước tác nghệ thuật,
và Thanh Tâm Tuyền đã có lần nói: «Người nghệ sĩ đưa sinh mệnh mình để đảm bảo sự thành thật của tác phẩm»,
thì ắt không buồn quan tâm đến những vấn nạn ấy. Điều chúng ta ghi nhận là nét
hững hờ, lãnh đạm của Tâm đã thổi dạt Bếp lửa trôi xa, không những với Dòng
sông Thanh Thuỷ của Nhất Linh mà còn xa với Khu rừng lau của Doãn Quốc Sỹ hay
Thần Tháp Rùa của Vũ Khắc Khoan đồng hội đồng thuyền.
Một thắc mắc, nhỏ thôi: không khí Hà Nội khoảng 1950-1952
nhất định phải khác xa không khí Sài Gòn 1970-1972. Nhưng về cơ bản, tâm lý thanh niên trí thức
có khác nhau nhiều không?
Ngày nay, ngọn lửa chiến tranh vẫn còn tàn phá nhiều nơi trên thế giới; và giữa tiếng kêu la thất
thanh của trẻ con, vẫn có lời vinh danh Thượng Đế. Trong Bếp lửa, Thanh Tâm Tuyền
đã viết «theo tôi có những lúc người ta cần giải quyết giữa người và người và Thượng Đế không nên có mặt ở
lúc ấy (…) Thượng Đế đã bị lôi kéo vào tấn thảm kịch riêng tư của loài người và chỉ có thể thoát ra với
sự thất bại» (tr. 67).
Tại Việt Nam,
một dải đất còm cõi đau thương, năm 1956, một thư sinh mặt trắng, 20 tuổi,
đã viết dõng dạc được một câu như thế, kể cũng là lời tiên tri lạ lùng và cao
siêu đấy chứ?
***
Về phong cách, Bếp lửa là một tác phẩm làm mới văn chương
chữ nghĩa theo nhận định của Nguyễn Quốc Trụ trong bài đã dẫn. Vậy mới, là so với
cái gì, và mới ra sao?
Trong một bài viết tưởng mộ Nguyễn Đức Quỳnh, tác giả Thằng Kình, Thanh Tâm Tuyền 1974 đã
viết: «Cùng với Những ngày thơ ấu của
Nguyên Hồng, Thằng Kình là quyển tiểu thuyết quan trọng đối với tôi. Đó
là quyển sách đã vỡ lòng, đã mở mắt (…) Tôi không phải là người của một vài quyển sách. Trước và sau khi đọc
Thằng Kình, Những ngày thơ ấu,
tôi đã đọc hầu hết tiểu thuyết Việt Nam, tôi hiểu được giá trị, tôi cảm
được cái hay của nhiều tác giả khác nhưng chỉ có hai tác giả Nguyễn Đức Quỳnh
và Nguyên Hồng gây được ở tôi lòng ngưỡng mộ. Văn chương phát sinh từ lòng ngưỡng mộ. Nên tôi không bao giờ quên ơn người đã
khơi dậy lòng ngưỡng mộ nơi tôi».[4]
Một lời tình
tự như vậy, ở một người ít tự sự như
Thanh Tâm Tuyền là quý hoá, là một chìa khoá đưa ta vào thế giới tiểu
thuyết, mối hạnh phúc đau đớn, bắt đầu từ Bếp lửa, rồi đến Khuôn mặt, Dọc đường,
Cát lầy, Ung thư, Mù khơi, Tiếng động…
Đối với Thằng
Kình (1942, Hàn Thuyên, Hà Nội), niềm ngưỡng mộ có lẽ dừng lại ở nội dung mới lạ của tác phẩm, thêm chút tình
riêng với tác giả. Chứ nhân vật Kình, khỏe mạnh, tự tin, tích cực, rất xa với
nhân vật truyện Thanh Tâm Tuyền; hành văn rậm rạp của Nguyễn Đức Quỳnh cũng xa
với lối viết trần trụi trong Bếp lửa.
Gần nhau hơn là Những ngày thơ ấu, Nguyên Hồng viết năm 1938, khi 20 tuổi, như
trường hợp Bếp lửa, dưới dạng tự truyện ở ngôi thứ nhất. Bằng giọng văn đơn giản,
Nguyên Hồng kể lại tuổi thơ cơ cực, một cách thành thực, như chuyện người mẹ
ngoại tình bị gia đình nhà chồng hắt hủi mà đứa con một mực yêu thương. Nhưng cơ bản thì hai truyện
khác nhau: Những ngày thơ ấu là tự
truyện của một người, dĩ nhiên là mang nét xã hội; Bếp lửa là truyện một
thế hệ thanh niên ưu thời mẫn
thế, mang nặng chất trí thức và chính trị. Nguyên Hồng viết đơn giản, nhưng thỉnh
thoảng vẫn có những đoạn văn chương, ví dụ ngay ở chương I (Tiếng kèn): «Những
buổi chiều vàng lặng lẽ… Buổi chiều nào cũng vậy…», không hề có trong Bếp lửa.
Và trong một bài báo, «Nhân nghĩ về hội hoạ», 1956, Thanh Tâm Tuyền khước từ lối
«văn chương có thể đặt tên là văn chương của bài tập đọc, luận mẫu cho học trò»
(Văn 11/1973, tr. 78). Từ đó, đem Bếp lửa ra giảng dạy ở học đường là việc khó,
vì khó tìm ra một vài trích đoạn tiêu biểu gọi là «trích diễm». Kinh nghiệm của
tôi: yêu cầu sinh viên phải đọc toàn bộ tác phẩm, rồi đưa ra những chủ đề tổng
hợp, về hình thức, nội dung. Ví dụ lối kể chuyện đơn tuyến, một mạch theo dòng
thời gian, không một lần quay lại quá khứ – cho dù có rơi rớt một vài kỷ niệm – về người mẹ và bà ngoại.
Lối dùng từ bình dị, ưu
tiên cho từ đơn âm, ít từ kép, càng ít từ Hán - Việt. Lối đặt câu ngắn, có khi
cụt ngủn, có khi lược từ. Câu văn cô đúc, có lúc khó hiểu, như là lời nói nén
chặt nội tâm: «Một bên đường cỏ hoang và núi đóng đồn binh» (tr. 47). «Ngọn núi
bắt đầu thấy cứng mình vì nghe nắng sắp về dữ dội» (tr. 87). Câu được
nhiều người nhắc: «Buổi sáng mùa đông ngây ngất vào lối 10 giờ» (tr. 11). «Buổi
chiều ngất ngư chưa muốn ngã»
(tr. 28).
Nhưng nét mới
quan trọng là không khí chung của toàn truyện Bếp lửa, không phân biệt nội
dung, tư tưởng, hình thức, nghệ thuật và ngữ pháp. Thậm chí người đọc có thể hỏi: Bếp lửa, bếp lửa nghĩa
là gì?
Với tôi, có lẽ thêm vài kẻ bạn, Bếp lửa là một bài hát.
Bài hát «chỉ được nghe một lần trong đời. Bài hát xưa lắm, những người thích nó kẻ đã
chết, người còn sống thì quên
không nhắc lại. Riêng tôi, tôi thường
thì thầm với chính mình những phút cô đơn» [5] .
Có ai đó đã viết đâu đó về âm hưởng nhạc blues trong thơ
Thanh Tâm Tuyền, tôi chỉ biết ông đã thiết lập quan hệ mật thiết giữa các bộ
môn nghệ thuật. Điều này, ngày xưa,
nhóm Tự Lực đã làm, nhưng còn
hời hợt, dù rằng nhà văn Nhất Linh, nhà thơ Thế Lữ, khởi đầu là những sinh viên trường Mỹ thuật. Thời đó, họ chỉ đặt
những tác phẩm nghệ thuật bên cạnh nhau. Hoạ hoằn lắm mới có bài Nguyễn Tuân về
tranh Nguyễn Phan Chánh. Ở Việt Nam, không có nhà thơ sành hội hoạ như
Baudelaire, cũng không có tình bằng hữu giữa các nhà thơ như Aragon, Eluard với hoạ sĩ Picasso hay
Chagall ở Pháp. Thanh Tâm Tuyền thật sự muốn bắc cầu giữa các bộ môn nghệ thuật,
nhất là giữa thơ và hội hoạ, và thân thiết với các hoạ sĩ Thái Tuấn, Ngọc Dũng,
Duy Thanh, bài «Nhân nghĩ về hội hoạ» viết năm 1956 - hai mươi tuổi - ông đề tặng
ba người ấy.
Hoạ sĩ Thái Tuấn
kể lại rằng trong một cuộc triển lãm năm 1958, ông có bức sơn dầu vẽ một
người đàn ông đội mũ đeo ống sáo trên vai, chừng mực nào đó, là một chân dung tự
hoạ; ông không biết đặt tên là gì. Thanh Tâm Tuyền đề nghị gọi là «Hoá thân»,
Thái Tuấn rất tâm đắc. Ý nhà thơ:
anh vẽ cái gì thì cũng là hoá thân vào bức hoạ, tranh nào rồi cũng thành
chân dung hoạ sĩ. Nghe chuyện, tôi cứ nghĩ Thanh Tâm Tuyền mượn ý từ một tựa đề tiểu thuyết của
Kafka. Đọc lại bài báo nói trên, tôi mới vỡ lẽ ông tham chiếu vào một chuyên khảo
về nghệ thuật của Malraux Những hoá thân của Apollon-les Métamorphoses
d’Apollon, 1951, và ông thường tâm đắc
với Malraux.
Ông viết trong
bài “Nhân nghĩ về Hội hoạ”: “Tôi công nhận nghệ thuật như một nghề như mọi nghề
khác khi tôi hiểu rằng muốn làm được nghệ thuật người ta cũng cần học hỏi, luyện
tập như tập sự bất cứ nghề gì. Đến đó thôi. Khi những nhà nghệ sĩ chân
chính, để bảo đảm sự thành thực của tác phẩm, đã mang sinh mệnh chính mình ra
thách đố, thì lúc ấy nghệ thuật không còn là một nghề nữa, nó là hành động siêu
việt của nhân loại trong cuộc tìm kiếm đời sống chính đính» (Văn, số đặc biệt
đã dẫn, tr. 78).
Đoạn trích văn này có thể tóm lược quan niệm và sự nghiệp văn thơ, nghệ thuật của
Thanh Tâm Tuyền, và làm kết từ cho bài này.
Chúng tôi gửi
thêm vào đó niềm kính trọng và thương tiếc khôn nguôi với một Lòng Suối
Trong Xanh đã lẫn sâu vào lòng đất, trở về cõi thuỷ chung. Một dòng thơ đời đời thao thiết nuôi dưỡng Tình
Yêu và Quê Hương trong mỗi chúng ta,
cho mỗi chúng ta, trong thân phận làm người, làm người trong hay ngoài đất nước,
luôn luôn trong nhân loại.
Trong truyện Bếp
lửa, sáng tác năm hai mươi tuổi, Thanh Tâm Tuyền đã hạ một câu kết, để đời,
– khi hiu hắt, khi ngời sáng, trong tâm thức thế hệ chúng tôi:
“Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng”.
Đời người,
vô cùng rồi cũng đến vậy thôi.
Vô cùng
Thanh Tâm Tuyền.
Thanh. Tâm.
Tuyền.
Thanh Tâm
Tuyền.
Ngày giỗ Trịnh Công Sơn
Orléans, 01-4-2006
ĐẶNG TIẾN
______________________
[1] Thanh Tâm Tuyền, Văn, số 199, tháng 4-1972, Sài Gòn.
[2] Văn, số đặc biệt Thanh Tâm Tuyền, tháng 11-1973,
Sài Gòn. Nhóm Thư Ấn Quán của Trần Hoài Thư dự tính in lại nguyên văn số báo để tặng bạn đọc,
liên lạc qua e-mail This email address is being protected from spambots. You
need JavaScript enabled to view it."
target="_blank">tranhoaithu@verizon.net. Hoan hô Trần Hoài Thư.
[3] Thanh Tâm Tuyền, Bếp lửa, nxb Nguyễn Đình Vượng,
1957, Sài Gòn, Chúng tôi trích đoạn từ bản
này.
[4] Thanh Tâm Tuyền, Văn, Giai phẩm, tháng 6-1974,
tr. 21-22, Sài Gòn.
[5] Thanh Tâm Tuyền, «Buổi sáng ngoài bãi biển»,
trong Khuôn mặt, tr. 98, nxb Sáng Tạo, 1964, Sài Gòn.
Theo VHNA