Nhà thơ Đỗ Nam Cao
1. Viết về cuộc đời và thơ Đỗ Nam Cao, có thể là không ai
viết kỹ và hay như các bạn của anh. Những đồng môn, đồng chí, đồng lòng… và hơn
thế, những tri âm tri kỷ. Cũng phải kể thêm cả những người bạn quý mến Đỗ Nam
Cao, về tài năng và đặc biệt là nhân cách của một nhà văn, theo đúng nghĩa của
cụm từ này. Hạnh phúc thay cho Đỗ Nam Cao, khi bên anh có rất nhiều người bạn
thủy chung, chí nghĩa chí tình, lại còn là những người nổi tiếng, đầy tài năng.
Tôi không có duyên được học cùng khoa cùng lớp với Đỗ Nam
Cao ở bậc đại học. Nhưng tôi lại có chung với anh cái gọi là “bản mệnh” của những
người tuổi Mậu Tý (1948). Vất vả, gian truân, bởi trót dính với nghiệp văn
chương, cho dù dày mỏng có ba bốn bề khác nhau.
Thơ Đỗ Nam Cao đến với bạn đọc từ khá lâu, nhưng hình như
vẫn còn thưa thớt. Và thực ra cũng chưa để lại nhiều ấn tượng, bởi nhiều lý do,
khách quan có, chủ quan cũng có. Mới đây, được đọc khá đầy đủ về anh, mới hình
dung ra một hồn thơ khang khác. Một thi sĩ bản lĩnh, rất giàu nội tâm, càng viết
càng hay…
2. Tôi biết, có nhiều nhà thơ tuổi càng cao viết càng nhạt.
Có thể là ở sức bền. Tuổi đời có dày thêm, vốn sống có đầy thêm, nhưng hình như
trong túi lại không nhiều vốn văn hóa. Câu chữ vẫn dồi dào, nhưng chất thơ mỏng
dần. Cũng không loại trừ trời cho chỉ có thế. Đỗ Nam Cao thì có khác. Và cũng
không chỉ Đỗ Nam Cao, khá nhiều thi nhân tuổi càng cao lại viết càng sâu. Chữ
ngắn đi, nhưng tình thơ ý thơ thì cứ dài thêm mãi, đặc biệt là những suy tư
thăm thẳm nỗi đời, những ký thác giàu chất triết học, chính là phẩm chất cốt tử
của thơ.
Tôi chưa có tham vọng viết về toàn bộ sự nghiệp thơ của
thi nhân họ Đỗ, trong bài viết nhỏ này chỉ xin được nói đôi điều về phần thơ của
Đỗ Nam Cao thời trai trẻ, khi anh còn là người chiến sĩ ở chiến trường, cầm bút
và cầm súng trực tiếp đối diện với quân thù. Phần thơ ấy, có tên là Những cánh
cò lửa, gồm 33 bài cả thảy.
Trước hết, phải nói ngay rằng, đây chưa phải là phần thơ
đặc sắc nhất của Đỗ Nam Cao. Phần đặc sắc của thơ Đỗ, chính là những bài thơ kể
từ khi Đỗ Nam Cao bắt đầu vướng vào những hệ lụy của gia đình và theo đó là cả
chính cuộc đời anh. Càng về sau, thơ Đỗ Nam Cao càng chặt chẽ hơn, tinh luyện
hơn, day dứt hơn, và không ít những câu thơ chói sáng, đầy bản lĩnh và chiêm
nghiệm. Đó là những bài thơ trữ tình bản thể, chan chứa tinh thần nhân văn,
nhân bản. Tuy nhiên, với phần đầu, Những cánh cò lửa, Đỗ Nam Cao cũng có những
thành công nhất định, thể hiện nhiệt tâm những cảm hứng công dân cao cả, sáng
trong, của một thời khốc liệt, đau thương mà anh dũng tuyệt vời của dân tộc,
thà hy sinh tất cả, quyết giành lại độc lập tự do.
3. Những năm ở chiến trường, Đỗ Nam Cao sống nhiều ở vùng
đồng bằng sông Cửu Long và đặc biệt là vùng ven Sài Gòn. Những cái tên Củ Chi,
Bến Cát, Trảng Bàng, sông Sài Gòn… cứ vang lên trong thơ Đỗ Nam Cao thật nhiều
nỗi niềm, nồng cháy tình yêu con người, cho dù cuộc sống kháng chiến vô vàn
gian khổ hi sinh. Một điều dễ thấy, cuộc sống kháng chiến thì như vậy, không thể
nói là chỉ rặt một màu lạc quan, nhưng trong thơ Đỗ Nam Cao thì cảm hứng lạc
quan là xuyên suốt, chủ đạo. Và đó cũng chính là cội nguồn để con người có thể
vượt lên trên tất cả những đau thương mất mát, để tình thơ cất cánh.
Điều ấy thể hiện ở tất cả các bài thơ Đỗ Nam Cao viết thời
kỳ này. Bài thơ Những cánh cò lửa, cũng là tên chung cho cả phần thơ thứ nhất
trong tập thơ Đỗ Nam Cao. Anh viết: Xuồng đi hối hả tiền phương/ Băng qua đồng
cỏ, chiều buông Tháp Mười/ Mây hừng lên sắc đỏ tươi/ Một con cò trắng ngang trời
liệng chao. Đấy là thi ảnh mà người thơ bắt gặp trong một lần công tác, chèo
thuyền băng qua Tháp Mười mênh mông. Một buổi chiều rất đẹp, như chưa hề thấy
mùi vị của chiến tranh. Tôi từng là lính đặc công, chiến đấu ở chiến trường khu
5, nhiều lần từ trên rừng xuống đồng bằng đi chuẩn bị chiến trường, hoặc chuẩn
bị bước vào trận đánh ban đêm, cũng gặp khá nhiều những buổi chiều êm đềm,
trong veo như thế, đôi lúc có cảm giác như chả thấy có gì là chiến tranh cả.
Nhưng Đỗ Nam Cao ở chiến trường Nam Bộ, Tháp Mười chỉ thấy màu xanh cây cỏ,
chân trời xa tít tắp, hoàng hôn đỏ thắm như một tấm phông choàng lên cánh đồng.
Đỗ Nam Cao cảm nhận rất rõ những nét đặc trưng ấy ở vùng Tháp Mười. Hơn thế, lại
bất chợt một con cò trắng ngang trời liệng chao, thì sao có thể cầm lòng cho được?
Còn nhớ Vương Bột đời Đường bên Tàu có câu: Lạc hà dữ cô lộ tề phi/ Thu thủy cộng
trường thiên nhất sắc (Ráng chiều với cánh cò cùng bay/ Nước xanh với trời xanh
một màu). Thơ Trần Nhân Tông, thơ Nguyễn Trung Ngạn đời Trần, thơ Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du… ở ta, cũng chả thiếu những thi ảnh tràn đầy mĩ cảm như thế này,
nhưng chủ yếu là trong những văn cảnh mà thi nhân nhàn tản, tâm hồn thư thái, tức
cảnh sinh tình. Đỗ Nam Cao của chúng ta thì khác. Anh đang cùng với đoàn thuyền
hối hả vào tiền phương, hình như là chuẩn bị cho một trận chiến ác liệt trong
đêm. Cảnh xuất hiện trên đường hành quân gấp gáp, đầy hiểm nguy giữa cánh đồng
hoang trống trải. Tâm thế khác rồi, ấy vậy mà thi nhân chiến sĩ họ Đỗ vẫn để
tâm ngắm nhìn thiên nhiên, rồi bất chợt một tứ thơ ào đến. Có thể bóng dáng của
câu thơ Vương Bột bấy lâu ủ kín trong lòng, nay gặp cảnh tương tự, lại rung lên
những tiếng đồng điệu chăng? Thế chẳng phải là cùng với bản lĩnh của thi nhân
chiến sĩ, thơ có thể làm cho con người cao đẹp lên, lớn lên đấy ư?
Ở phần tiếp sau của bài thơ, tứ thơ được triển khai, cũng
chỉ là xoay quanh hình ảnh con cò. Vẫn con cò của ca dao/ Con cò lặn lội bờ ao
ướt mình. Con cò hiện hữu, gợi nhớ hình ảnh con cò ngày xửa ngày xưa, của tuổi
thơ, của ca dao mà ta từng nghe và thấm vào lòng như uống dòng sữa mẹ. Nhưng cò
bay trong ráng chiều đỏ thắm, nên Xa trông như ánh lửa bùng/ Cánh con cò cháy một
vùng trời cao. Hình ảnh con cò từ cụ thể đã được nâng lên thành con cò lửa, như
là biểu tượng của một niềm tin đang bùng lên, cháy lên rực rỡ. Bài thơ được kết
thúc bằng một liên tưởng đẹp và lãng mạn: Xuồng đi mây ửng ngọn sào/ Tôi mang
đôi cánh lửa vào tiền phương.
Có thể nói, không ít bài thơ trong Cánh cò lửa đều được cấu trúc hình thức kiểu hiện tại, quá khứ,
tương lai như thế. Ví như bài Những nấm mồ, bài Chuyện về những búi cỏ, bài Ở
trong một cái chốt cũ của giặc Mĩ, rồi Hương sầu riêng v.v…
Bài Những nấm mồ được tác giả thể hiện như một ghi chép từ
hiện thực trong chiến tranh, nơi Đỗ Nam Cao từng đi qua, như anh từng đi qua rất
nhiều địa danh thuộc vùng ven thành phố Sài Gòn. Những người đã trải qua chiến
tranh, như rất nhiều các anh các chị từng đội mũ tai bèo làm quân giải phóng
năm xưa, cũng đã chứng kiến nhiều nấm mồ như thế. Đỗ Nam Cao thể hiện điều ấy bằng
một bài thơ giàu cảm xúc. Đám ruộng ngày xưa biến thành nghĩa địa/ Một con đường
mòn chúng tôi hành quân qua. Bên con đường mòn ấy là những nấm mồ, ở đó, có những
trụ đá ong cắm vào góc mộ, cũng không biết ai nằm nơi đây? Tác giả hình dung những
người đang nằm dưới mộ kia có thể là người gieo hạt trồng cây, có thể là người
đắp đất xây nhà, cời than bếp lửa, có thể là một má già ngồi ngoáy trầu bên cửa,
một cháu nhỏ, một cô gái bâng khuâng trong dáng hẹn hò… Họ là những người dân
hiền lành chân chất, bị giặc Mĩ sát hại. Những sinh linh đáng thương ấy, dù
chưa biết tuổi tên cụ thể, chưa rõ nụ cười, giọng nói, dáng đi, nhưng hết thảy
đều vô cùng quý giá/ Những người dân đất nước tôi! Cũng theo tác giả, tất cả ruộng
vườn, dòng sông, hoa lá… đều là kẻ thù của bầy dã thú/ Bọn ghê sợ con người/
Giày xéo quê hương mười mấy năm rồi! Tình cảm người chiến sĩ trong con người
thi sĩ được chuyển hóa thành nhận thức về trách nhiệm của những người đang sống,
căm giận sẽ biến thành lửa đạn trút lên đầu thù: Chúng tôi đi chẳng nói lên lời/
Nếu phút này quân thù xộc tới/ Những trụ đá tổ ong sẽ biến thành bệ súng/ Vụt
lao đi trong luồng lửa sáng ngời. Đỗ Nam Cao là vậy. Sòng phẳng, quyết liệt và
sáng trong.
Đỗ Nam Cao quan sát rất kỹ cuộc sống của nhân dân và chiến
sĩ trên đường anh qua. Quan sát, lắng nghe và suy ngẫm. Hiện thực ấy lại được
đưa vào thơ, hay là được biểu hiện bằng hình thức thơ, tinh tế và chân thực. Ví
như cây cỏ tranh, vốn là một thứ cỏ hoang, nhà nông rất ghét. Nhưng đó lại là một
thứ cỏ không hoàn toàn vô dụng. Cỏ tranh có thể lợp nhà, lá sắc bén như gươm.
Thấy cỏ cháy, lòng thi nhân quặn đau: Bén từ ngọn đến gốc sâu/ Lại hiền hậu mái
tranh màu vàng ươm/ Lào xào như thể rừng gươm/ Màu xanh sắc cạnh, cỏ vươn giữa
trời. Và trái tim người thơ nhận thấy Cỏ như cũng có hồn người ở trong. Viết về
Dáng bông lúa, Đỗ Nam Cao có cái nhìn rất nhân sinh: Những bông lúa uốn câu/
Cúi lặng hôn mặt đất/ Từng hạt lúa như long lanh nước mắt… Cũng như vậy, anh cảm
nhận về quả Dưa hấu Trảng Bàng: Đạn bom mười mấy năm trời/ Đất nồng xám để dưa
tươi đỏ lòng. Khi viết về Tiếng xay lúa trong đêm, ở một vùng ven Sài Gòn, Đỗ
Nam Cao kể rằng đang nằm trên võng, anh chợt nghe tiếng ù ù ầm ầm. Chỉ là tiếng
xay lúa trong đêm thôi, nhưng nó đã khuấy lên trong lòng thi nhân biết bao nỗi
niềm. Đã lâu rồi không còn nghe nữa/ Mười mấy năm hoang tàn đạn lửa/ Ruộng hóa
nên đồng cỏ trác cỏ may. Rồi biết bao ký ức tuổi thơ tràn về, với hình bóng mẹ
còng lưng xay lúa, và anh kết luận: Từ nghìn đời nghe vẫn thế này/ Cái tiếng ngọt
ngào, cái tiếng đắng cay/ Trong câu đố ngỡ òa tiếng khóc/ Mà đêm nay, đêm nay hạt
thóc/ Cứ ngân nga trong lòng cối tre xoay… Sự tinh tế trong quan sát hiện thực
chiến tranh, ở Đỗ Nam Cao thường đi liền với những cảm thức nhân văn. Ví như
nhìn những đụn khói bom, chắc là do máy bay B52 của Mĩ thả xuống nhằm triệt hạ
sự sống ở vùng ven, anh thấy Những đụn khói ùn lên/ Như bãi nấm màu đen và liên
tưởng: Loài nấm này chưa biết đặt tên/ Hãy cứ gọi nó là nấm độc/ Hãy cứ gọi nó
là nấm chết. Nghĩa là, loài nấm này chỉ có thể đem đến sự hủy diệt đời sống con
người.
Trong Những cánh cò lửa, Đỗ Nam Cao chẳng những thể hiện
tình yêu của anh với bạn bè, đồng đội, mà anh còn thể hiện tình cảm đó với người
anh thương, với đứa con được sinh ra trong rừng, với cô gái thợ cày, với người
bắn “cá rô” ở Củ Chi, với bà má chợt gặp trong một đêm đột ấp… Tất cả hiện lên
một cách chân thật, rất đáng yêu và trân trọng. Những con người mà chiến tranh
khốc liệt đã tôi luyện họ thành sắt thép, nhưng rất giàu nghĩa giàu tình. Tất cả,
anh gọi đó là nhân dân. Trong gian khổ, cuộc sống vẫn nở hoa, tình yêu vẫn nở
hoa như một sự bất tử của niềm tin chiến thắng.
Ở Trảng Bàng, ngày 14/3 năm 1975, Đỗ Nam Cao đã Ở trong một
cái chốt cũ của giặc Mĩ. Ấy là khi quân Mĩ đã rút đi rồi, chỉ còn trơ lại một
cái chốt cũ, như một chứng nhân của tội ác mà quân thù từng gieo rắc nơi đây.
Bây giờ thì đã Xanh mượt mà cò bay/ Làm kẽm gai rỉ nát/ Tầm vông xòe bóng mát/
Măng cứ đâm lên dài. Rồi thì Lô cốt một và hai/ Nền xưa lô cốt mẹ/ Hoa mướp
vàng ong ghé/ Gió đung đưa quả dài. Lại còn Mập mạp những vồng khoai/ Hàng cà
hoa tím mãi… Nhưng ký ức đau thương bỗng lại hiện về, để Thương một người con
gái/ Thương một người con trai đã hi sinh ở chính nơi này. Tác giả kết luận: Những
vết thương mau lành/ Hờn căm còn cháy bỏng/ Mặt chốt nhìn rất phẳng/ Mênh mông
một cánh đồng…
Còn có thể nói nhiều hơn nữa về Những cánh cò lửa trong tập
thơ của Đỗ Nam Cao. Đọc thơ, thấy hiện lên chân dung những con người cụ thể đã
từng sống bên anh, sống với anh và ngồn ngộn tươi ròng sự sống chiến đấu gian
khổ hi sinh. Từ đó, chúng ta có thể hình dung ra những năm tháng rất đỗi tự hào
của một vùng đất anh hùng. Từ đó, có thể phần nào hình dung gương mặt của cuộc
chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc.
Như trên đã nói, Những cánh cò lửa chưa
phải là phần thơ đặc sắc, về nghệ thuật thơ ca, so với chính thơ Đỗ Nam Cao ở
giai đoạn sau này, và so với nền thơ chống Mĩ. Anh chỉ thấp thoáng đâu đó trong
đám đông những nhà thơ thời chống Mĩ, với những Thanh Thảo, Phạm Tiến Duật, Hữu
Thỉnh, Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ, Nguyễn Đức Mậu, Vũ Đình Văn, Hoàng Nhuận Cầm,
Anh Ngọc, Nguyễn Duy, Trần Mạnh Hảo, Diệp Minh Tuyền… Nhưng Đỗ Nam Cao cũng có
những nét riêng, trẻ trung, đằm thắm và chân thực, mặc dù đây đó trong thơ anh
còn rải rác những khổ thơ không cần thiết cho việc cấu tứ, những câu thơ ý thơ
lặp lại mà không tạo thêm được nét nghĩa mới cho bài. Dù vậy, tôi vẫn cho rằng
Đỗ Nam Cao đã góp một sắc màu cho bức tranh thơ hoành tráng của giai đoạn kháng
chiến chống Mĩ thêm đậm đà, như thế chẳng đáng quý lắm sao?
Hà Nội, 9.2012
VŨ BÌNH LỤC
Nguồn: VNQĐ
ĐỌC THÊM VĂN CHƯƠNG PHƯƠNG
NAM: