Nhà thơ Tô Thuỳ Yên (trái) và họa sĩ Đinh Cường
Cho đáng một
lần đi(2)
Bất ngờ khác,
ông gần như không có sự ngại ngần khi trò chuyện với tôi - một nhà thơ từ Hà Nội vào. Ông thường ghé qua nơi
tôi làm việc - Chi nhánh NXB Hội Nhà Văn tại TP.HCM, nơi ông có thể gặp những
nhà văn miền Nam còn ở Sài Gòn như Huỳnh Phan Anh, Bùi Giáng, Nguyễn Đình Toàn, Thế Phong... và những
nhà thơ trẻ như Nguyễn Quốc Chánh,
Bùi Hoằng Vỵ, Thảo Phương, Phạm Thị Ngọc Liên...
Hồi đó, hẻm
361 Hai Bà Trưng (nơi có trụ sở NXB) còn vắng vẻ. Phía trước mặt trụ sở có một khoảnh đất trống. Gia đình
nọ đã dựng tạm gian quán lợp giấy dầu bán cà phê nước ngọt, kiểu một cái quán cóc. Chúng tôi thường
“tụ tập” ở đó. Sáng nọ, trong gian quán quạnh quẽ, Tô Thùy Yên đã đọc
cho chúng tôi nghe bài thơ Quán
vắng vẻ của ông, giọng nhẹ nhàng, cách đọc chậm rãi khiến người nghe dễ dàng nhập vào tâm trạng của
tác giả: Việc đời lầm lẫn vậy/ Hối mấy chẳng hơn gì/ Thôi
thì hãy cố nán/ Cho đáng một lần đi...Nghe đâu, trong tù, ông còn hát vang
lên một ca khúc của Trịnh Công Sơn,
để báo với bạn tù sự có mặt của mình, để thiên hạ biết mình vẫn có thể
hát.
Đôi lần, ông xuống nhà tôi ở quận 6, không gặp tôi, ông
trò chuyện với nhà tôi và các con tôi. Khi nghe vợ chồng tôi có ý định xây nhà
trên mảnh đất ở Gò Vấp, ông đưa chúng tôi đến Biên Hòa gặp kiến trúc sư Đinh Thiên Tứ - bạn ông - nhờ thiết kế.
Từ khi ra tù,
Đinh Thiên Tứ bỏ nghề, không nhận bất cứ công việc chuyên môn nào. Nếu không có
Tô Thùy Yên, chắc chắn chúng tôi không thể có được ngôi nhà trang nhã,
thanh thoát, chan hòa nắng gió này.
Ông nói với tôi, ông mong có dịp ra Hà Nội, nơi ông từng
qua giữa đêm khuya trong chiếc xe chở tù bít bùng, chật chội. Ông một mình chạy
xe đến hồ Trị An: đi giữa trảng tranh/ràn rạt gió lùa/hư rỗng tuênh
toang/ bốn phía rừng xa mịt mịt...
Những quấn quýt bạn bè, những lo toan giúp đỡ, những tỏ
bày, những chuyến đi... phần nào nói lên tâm trạng của Tô Thùy Yên lúc này. Ông
vừa ra khỏi tù lần thứ ba chưa bao lâu và đang chuẩn bị cho việc rời bỏ quê cha
đất tổ. Có thể nói, đó là quãng thời gian rất đặc biệt trong cuộc sống của ông:
chưa dứt khỏi ký ức nặng nề, bàng hoàng giữa những ngày đang sống (Lang
thang rã rời ngoài phố đông người/ không gặp một ai quen... Bất chợt nghe như đời
đã muộn/ Muộn đến chán chường rũ thõng đôi tay/Tưởng không cái vội nào còn bắt
kịp...) và, đứng trước một chuyến ra đi không dễ dàng, thậm chí, là một
chuyến đi đau đớn, đầy ưu uất: Anh ra đi/Bứt ruột mà đi/ Như đã một lần
cũng bứt ruột/Đi những mười năm tưởng chẳng còn về...
Cuối năm, trước khi cùng gia đình rời Việt Nam, ông đem
cho tôi một số bài thơ chép tay, như món quà cho người bạn vong niên: Ngoài
cõi võ vàng, Giấc hoành môn, Những mẩu giấy rời, Những thành phố mà ta không
ghé lại, Bài thơ chia tay dành cho người duy nhất đọc, một bài không có tựa
đề và bản in bài Ta về (có lẽ trên một tạp chí ở hải ngoại) với
các ghi chú: Xin đừng phổ biến. Đa tạ. Chữ Tô Thùy Yên rất đẹp.
Các bài thơ đều được viết trong năm 1993. Sau này,
trong Thơ tuyển, Bài thơ chia tay... được lấy tựa Giã biệt và
không thấy có Những mẩu giấy rời, Ngoài cõi võ vàng, bài thơ không
tựa đề. Có thể Tô Thùy Yên không chọn. Mà cũng có thể ông không còn lưu giữ
chúng.
Tô Thùy Yên dường như không có thói quen lưu giữ các bài
thơ của mình, dưới bất cứ hình thức nào. Làm thơ từ cuối những năm 1950 mà đến
năm 1995 ông mới cho xuất bản tập thơ đầu tiên. Được biết, khi làm sách, ông đã
phải nhờ cậy bạn bè và những người yêu thơ còn lưu giữ thơ ông. Một trường hợp
hy hữu.
Thơ của gã du hành muôn năm muôn nơi
Nhưng một cuộc gặp khác, cuộc gặp Thơ Tô Thùy Yên thì phải
chờ đến mấy năm sau. Có thể nói, đây là một cuộc gặp gây chấn động với tôi. Mười
mấy năm trôi qua, kể từ khi có Thơ tuyển và Thắp tạ(3),
tôi luôn có ý định viết về thơ Tô Thùy Yên nhưng lại luôn ngần ngại, lo mình
không đủ thấu hiểu, không đủ sự đồng cảm(4). Chỉ khi nhận được thư
điện tử của ông vào cuối năm 2015(5), tôi mới khởi sự.
Như mọi nhà thơ lớn, khi bắt đầu, Tô Thùy Yên đã định vị
chỗ đứng của mình. Thi sĩ 18 tuổi lựa chọn sự đối đầu. Với Thượng đế, “Đầu
tôi cứng và trơn/ Thượng đế làm sao ngự”, với Hư vô: “Có đọc thuộc
thánh thư/Linh hồn tôi vẫn vậy/Tôi vẫn không thể lạy/Dù đứng trước hư vô”,
với Cuộc đời: “Với thứ linh hồn quốc cấm/ Tôi tù tội chung thân”, với
Thơ: “Tôi giựt giành đổ máu với tôi/ từng chữ một”. Và, thi sĩ chấp nhận
nỗi cô đơn: “Tôi thấy đã mất mát/ Tất cả trừ cô đơn”, chấp nhận “cuộc
tuần du bất tận… về nơi hẹn nào không định trước”, chấp nhận những đau đớn,
những oan khiên, những trượt lỡ của cuộc đời. Đó là một lựa chọn có ý thức. Và
vì vậy, đã được nhà thơ giữ trọn suốt một đời thơ dài hơn 60 năm.
Có thể nói, thơ Tô Thùy Yên là câu chuyện của “gã du
hành muôn năm muôn nơi”. Cách khác, chính xác hơn, đó là cuộc độc thoại của
con người đầy ý thức về cõi thế, về cõi người, về lẽ mất, còn, về dựng xây và hủy
diệt, về hy vọng và tuyệt vọng...
Cách khác nữa, là lời tự vấn, là những câu hỏi, nhiều khi
không lời đáp, sau những gì đã đi qua, sau những hạnh ngộ và chia lìa, sau những
hân hoan hiếm hoi và những khổ lụy lâu dài của kiếp người. Dù là cách nào đi nữa,
cuối cùng, thơ Tô Thùy Yên cũng đem lại cho ta những suy nghĩ lớn lao, những
rung cảm mãnh liệt, những dày vò khôn nguôi, và, vẫn còn đó, những câu hỏi mà
ta cũng không tìm ra lời đáp hay chỉ là “Câu hỏi vạn niên/ Lời đáp nhất thời”.
Đó là câu chuyện của bậc thượng thừa, bậc tiên tri. Chẳng
phải thế sao. Ai, ngoài ông, có thể tiên cảm kinh hoàng về những tai ương, những
tang tóc mà nhân loại hôm nay đang hứng chịu:
Một ngày, ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới
Ngoài biển khơi, trên lục địa
Sò hến, côn trùng cũng chẳng yên thân
Ngoài biển khơi, trên lục địa
Sò hến, côn trùng cũng chẳng yên thân
Đặng Tiến tinh tế khi cho rằng thơ Tô Thùy Yên là “những
bài thơ ngoài thời gian và vô quốc tịch”.
Câu thơ soi mệnh viết mà khóc
Vào năm 1972, trong bài thơ Bất tận nỗi đời hung
hãn đó, nhà thơ từng cầu ước được một lần thấu suốt định mệnh của mình.
Nhưng, vẻ như, ông đã không được toại ước, không thể biết rằng, chỉ vài ba năm
sau đó, đã phải đặt chân lên đoạn đường tàn khốc của đời mình.
Đó là thời của
những Mùa hạn: mùa hạn của trời đất, mùa hạn của thể xác, của tâm tưởng:
... Nước
khe, cơm độn, thân tàn rạc
Sống chẳng
khôn, cầu được thác thiêng
Đó là thời của
những chuyến Tàu đêm lao vào cõi mịt mù tựa như một mũi khoan xoáy vào tâm trí đớn đau của người
tù:
... Tàu đi
như một cơn điên đảo
Sắt thép
kinh hoàng va đập nhau
Ta tưởng chừng
nghe thời đại động
Xô đi ầm ĩ
một cơn đau...
Nhưng, với con
người ấy, những oan khiên, những mất mát, những khổ lụy của cá nhân không làm lụi
tắt tình yêu thương bất tận với
đồng loại, không làm lụi tắt nỗi lo âu nhân thế. Chính trong cái Mùa hạn kinh
hoàng ấy, trong cảnh tù đày khốn khổ ấy, những câu thơ vẫn bật lên ánh sáng
nhân ái kỳ diệu nhất mà con người có thể có được:
... Tất cả
rồi đây sẽ đổi thay
Đổi thay từ
quặng mỏ, mầm cây
Đổi thay cả
mặt người tăm tối
Những bớt
chàm xưa được xóa trôi
Chính trên
chuyến tàu đêm mịt mùng, vô vọng ấy, những câu thơ lại như những lời kêu gọi vang vọng, những khắc
ghi sâu đậm trên ngày tháng:
... Tàu ơi,
hãy kéo còi liên tục
Cho tiếng rền vang dội địa cầu
Lay động những tầng mê sảng tối
Loài người hãy thức, thức cùng nhau
Thật khó hình dung đó là tiếng nói của một người tù nhưng thật dễ hiểu, khi biết, người
tù đó là nhà thơ Tô Thùy Yên - người từng chọn cho mình một cách giã từ
đẹp đẽ nhất, sang cả nhất:
Rồi đến một hôm nào
Ta mắc lại
Trên cành cây bất chợt gặp bên đường
Tấm áo sinh thời nặng trĩu bụi
Như một lời từ biệt nghe rồi quên.
Đó là những vần thơ Lấy mình soi mệnh mình.
Lòng ta vô
sự, ta vui vẻ
Câu thơ này nằm trong bài Hề, ta trở lại
gian nhà cỏ, một bài thơ hiếm hoi dường như chứa chất nỗi vui, sự thanh thản
của tâm hồn. Dù vậy, ngay lần đầu đọc câu thơ, tôi đã ngờ ngợ có điều
chi bất ổn. Có thể vì tôi đã đọc quá nhiều những câu thơ đau đớn, dằn vặt, thảng
thốt về nỗi đời của Tô Thùy Yên.
Chúng phủ trùm lên tâm trí người đọc, không nhường chỗ cho bất cứ điều gì
khác. Mà cũng có thể, chính âm hưởng
của câu thơ đã phủ định ý nghĩa của từ ngữ. Nếu quả ta vui vẻ, ta vô sự,
hẳn ta chẳng cần “tuyên bố” như vậy.
Trong lời
tuyên bố này hàm chứa một điều gì giống như sự gắng gượng, gắng tỏ ra vui vẻ, gắng quên những
lo âu, phiền lụy:
Ví dù ta ngủ
không còn dậy
Ắt hẳn lòng ta cũng dửng dưng...
Vẻ như, cuộc gắng
gượng không thành. Xem ra, lòng chẳng hề vô sự. Xem ra, cuộc “làm lại
tâm hồn” cũng chỉ là một dự tính bất thành.
Hạnh phúc,
tình yêu, niềm vui... trong thơ Tô Thùy Yên thường ở trạng thái của một mơ ước, một dự tưởng. Vườn hạ
trong xanh dịu dàng kia chỉ là việc của “mai kia mốt nọ”, những cảnh thanh bình
yên ả chỉ là nỗi nhớ tiếc:
Còn ở đâu miền xanh bóng cây
Để ta đến đó ngồi trưa nay
Dường như hơi mát trong vòm lá
Có chất men làm ta thoảng say...
Và, tình yêu. Và niềm vui chỉ là một khát vọng khôn cùng,
một mong mỏi khiêm nhường:
Hãy
hạnh phúc nhất thời
Như
dấu lặng
Hãy
hạnh phúc nhất thời
Như
tiếng mưa rào, như lời cỏ hát
Như ánh chớp
đùa, như hạt sương gieo
Như giọt nước
lan reo mà tự hủy...
Liệu con người
này có lúc nào vô sự, có lúc nào vui vẻ, thảnh thơi như câu thơ ông từng viết?
Ta về khai
giải bùa thiêng yểm
Cuộc “khai giải”
này dường đã được bắt đầu từ rất lâu, trước tai ương, trước mười năm tù
lưu xứ, trong căn cốt, trong tri cảm
của thi sĩ - hành giả.
Ví như, từ một lần đi đến ngôi quán vắng vẻ kia: Lỗi
tự mình, lỗi tự mình thôi/ Đã chẳng nhớ ra ngày tháng hẹn... Tội cho người, tội
bấy cho người/ Cũng đến đây chờ chẳng gặp ai... Việc đời lầm lẫn vậy/ Hối mấy
chẳng hơn gì.
Ví như, từ một lần đến Trường Sa: Ta hỏi han, hề,
Hiu quạnh lớn/ Mà Hiu quạnh lớn vẫn làm ngơ... Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt/
Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi/ Đám cây bật gốc chờ tan xác/ Có hối ra đời chẳng
chọn nơi...
Ví như, từ bao nhiêu chiêm nghiệm về lẽ đời: Đừng
loạn tâm, đừng loạn tâm/ Cuối chặng hành trình quay đảo nhất/ Cả thảy sẽ an
nhiên/ Trong trật tự hằng hằng của vũ trụ...
Và, cuộc “khai giải” sâu đậm nhất đã diễn ra trong một lần
gặp mặt tưởng tượng với người lính bên kia chiến tuyến:
Ta thương
ta yếu hèn
Ta thương ngươi khờ khạo
Nên cả hai
cùng cam phận quay cuồng
Nên cả hai
cùng mắc đường Lịch sử...
(Chiều trên
phá Tam Giang)
Chắc chắn, nếu không có cuộc “khai giải” trong tâm tưởng ấy,
không có cuộc khai giải tự lòng mình ấy, không thể có hình ảnh người tù: Ta
về một bóng trên đường lớn; không thể có cảnh tượng: Tưởng tượng
nhà nhà đang mở cửa/ Làng ta, ngựa đá đã qua sông/ Người đi như cá theo con nước/
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng; không thể có nỗi hàm ơn: Ta
về cúi mái đầu sương điểm/ Nghe nặng từ tâm lượng đất trời/ Cám ơn hoa đã vì ta
nở/ Thế giới vui từ mỗi lẻ loi; không thể có sự bình tâm: Em
hãy yêu lấy thành phố của anh/ Như tất cả những gì anh gửi lại/ Trong buổi chiều
dịu lãng đời em/ Thành phố của anh/ Bây giờ đã thuộc về em/ Như lời nói thuộc về
nhà thơ phe thắng trận; không thể có cuộc lễ tạ đơn độc mà kỳ vĩ: Ta
về như lá rơi về cội/ Bếp lửa nhân quần ấm tối nay/ Chút rượu hồng đây, xin rưới
xuống/ Giải oan cho cuộc biển dâu này...
Cuộc khai giải
huy hoàng và đau đớn này, chỉ có thể được làm nên bởi chính tri cảm của một người lớn, một nhà thơ lớn.
Mà, bài thơ
ông muốn viết vẫn chưa xong (6).
* * *
Các nhà phê bình
văn học danh tiếng như Đặng Tiến, Thụy Khuê, Nguyễn Hưng Quốc, Bùi Vĩnh Phúc... đều đã thử bút với
thơ Tô Thùy Yên. Và, dường như chưa
ai trong số họ cho rằng họ đã nói lời sau cùng về ông. Chắc chắn, những
nhà phê bình tiếp sau họ, những độc giả của tương lai, sẽ đọc Tô Thùy Yên với một
định chuẩn thẩm mỹ mới, bởi Thơ Tô Thùy Yên là kho báu của thơ Việt, bởi Tô Thùy Yên là “một trong những tiếng
thơ lớn, của 20 năm văn chương miền Nam” (Du Tử Lê). Chính xác hơn, Tô Thùy Yên
là nhà thơ lớn của nền thơ Việt Nam hiện đại.
Ý NHI
Nguồn: NGƯỜI ĐÔ THỊ
__________________________
Tô Thùy Yên
tên khai sinh là Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Sài Gòn, cựu học
sinh Petrus Ký và Đại học Văn khoa.
Ông bắt đầu có thơ đăng trên báo Đời Mới (thập niên 1950)
và cùng với Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, các họa sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng, là những
nòng cốt của nhóm Sáng Tạo, một nhóm sáng tác đã từng được biết đến với phong
trào khai sinh “Thơ tự do” trên văn
đàn miền Nam thập niên 1960.
Cuối năm 1963
ông nhập ngũ, phục vụ ngành chiến tranh chính trị quân đội Sài Gòn.
Sau 30.4.1975, Tô Thùy Yên phải tập trung cải tạo tổng cộng gần 13 năm, đến
1993 ông cùng gia đình sang Hoa Kỳ định cư...
__________________
(1) Tựa bài viết cũng như các câu thơ in nghiêng trong bài viết là thơ Tô Thùy
Yên
(2) Các tít phụ đều là thơ Tô Thùy Yên
(3) Tên hai tập thơ của Tô Thùy Yên
(4) Đặng Tiến: “Tác giả kén chọn người đọc và cách đọc, có lẽ vì thế mà 40 năm sau khi có thơ thường xuyên đăng trên
báo, anh mới cho xuất bản một tập thơ tuyển, viết về anh có phần khó, không phải ở khâu bình giải khen chê, mà ở mức độ đồng cảm” (Ngựa phi, ngựa
phi đường xa)
(5) Trích thư Tô Thùy Yên trả lời về việc xin đăng
thơ ông trên Văn Việt: “... Về những bài thơ, xin cô cứ tùy nghi. Tôi thiết
nghĩ, dù xa mặt, bao giờ cô cũng chẳng nỡ làm gì có thể hại thanh danh và khí tiết của tôi...”
(6) Trời rạng/Chuyến đi không hoãn được/ Bài thơ tâm phát dẫu chưa xong/
Xin vẫn cài hờ lên cửa tạ (Thơ tạ)
ĐỌC THÊM VĂN CHƯƠNG PHƯƠNG
NAM: