Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2019

Ngô Tất Tố - một sự nghiệp lớn trên cả hai tư cách

Nghiệp văn của Ngô Tất Tố là nằm trọn nửa đầu thế kỷ XX, thế nhưng người đọc vẫn không một chút e dè khi đặt Ngô Tất Tố vào hàng những đại văn gia của thế kỷ. Bởi ông luôn luôn là con người của thời sự, của hiện tại. Bởi ánh sáng trong tác phẩm của ông luôn luôn có sức rọi sâu và xa. Bởi sự nghiệp của ông là dự cảm, là phát ngôn, là hiện thân những vấn đề lớn của đất nước, của nhân dân, của thế kỷ.
Nhà văn Ngô Tất Tố

Một thế kỷ dày đặc các sự kiện, các biến động, các đổi thay, các bước ngoặt trong đời sống vật chất và tinh thần, trong văn hoá, văn học, nghệ thuật... mà phần xuyên suốt, liền mạch, không ngắt quãng của nó là hai nhu cầu lớn và khẩn thiết: công cuộc canh tân đất nước và cách mạng dân tộc - dân chủ chúng ta đã hoàn thành; công cuộc đổi mới và cách mạng theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang theo đuổi. Đó là hai nhu cầu xen cài vào nhau, chuẩn bị cho nhau, làm tiền đề cho nhau, cùng điều chỉnh, cùng phát triển. Ở mỗi nhà văn lớn như Ngô Tất Tố, phần giá trị tác phẩm của họ là nhằm đáp ứng được một nhu cầu, hoặc gắn được một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, gần hoặc xa hai nhu cầu ấy. Đưa văn chương vào quỹ đạo các vấn đề xã hội, trong đó nổi lên cực kỳ gay gắt vấn đề áp bức và bóc lột, vấn đề quyền sống và sự an toàn của con người, vấn đề sống còn của dân tộc - đó là vấn đề bức xúc, dồn tụ suốt nửa đầu thế kỷ và đạt đỉnh điểm, để đi tới giải pháp ở thời điểm 1945. Đưa văn chương vào con đường hiện đại hoá, vào một quá trình hoà nhập với thế giới, để cho nền văn chương ấy thoát ra khỏi tình thế phong bế, lạc hậu; góp phần cải tạo dân trí, khơi gợi các khát vọng dân chủ ở con người - đó cũng là một nhu cầu lịch sử cấp bức đặt ra vào đầu thế kỷ. Nhu cầu đó tìm được cách giải quyết nhờ vào sự tiếp sức của mấy thế hệ Nho học và Tây học, trong cả một phong trào liên tục nhằm truyền bá chữ quốc ngữ, phát triển báo chí, hình thành các thể văn mới, giao lưu và hoà nhập từng phần vào nền văn hoá thế giới hiện đại...

Là nhà văn hiện đại sinh năm 1893, thuộc lớp tiền bối của số lớn nhà văn có tuổi đời thua ông trên dưới 30 năm làm nên một đội ngũ hùng hậu vào những năm 1930 đầu 1940. Với năm sinh đó, ông đã xích gần với những tên tuổi thuộc thế hệ giao thời như Tản Đà, Trần Tuấn Khải, Hồ Biểu Chánh... Thế nhưng trong ý tưởng của nhiều tầng lớp bạn đọc, ông vẫn là người của thế hệ mới, người của thời hiện đại. Đi suốt chiều dài thế kỷ XX, ông không phải là người gối đầu, người chuyển tiếp, người của buổi giao thời, mà vẫn cứ là người hiện đại. Nhà Nho đầu xứ tinh thông Nho học, am hiểu Đông phương học ấy lại là người rất tân thời, rất cùng thời với chúng ta, trong toàn bộ trước tác của ông với tư cách nhà văn, nhà báo, nhà phóng sự, nhà tiểu thuyết, nhà tiểu phẩm, và bao trùm, một nhà văn hoá, nhà học giả... Toàn bộ trước tác của ông chứa đựng nhiều mặt giá trị. Không riêng Tắt đèn, Việc làng, Tập án cái đình nói với ta bao điều nhức nhối trong sinh hoạt người nông dân và nông thôn Việt Nam trước 1945. Không riêng tiểu phẩm, báo chí nói với ta một đời sống với bao điều bức bối của một xã hội đã chuyển hẳn vào guồng quay của chế độ thuộc địa. Không riêng Lều chõng và các công trình nghiên cứu về sử, văn học sử và tiểu thuyết lịch sử cho ta hiểu Ngô Tất Tố như một nhà văn hoá sử. Quả là vậy, Ngô Tất Tố luôn luôn làm ta kinh ngạc, vì cách đặt các vấn đề xã hội từ các tầng tiềm ẩn sâu xa của sự sống và của cả nền văn hoá, và vì sự nhạy cảm, thức thời, cập nhật của thời sự, của hiện tại. Tách riêng ra, ở mỗi lĩnh vực, Ngô Tất Tố là người viết sâu sắc, và bộc lộ hết mình. Tổng hợp lại, ông càng lớn trong những thấu hiểu sâu xa về cuộc sống và con người, về xã hội và thời cuộc, về tri thức và văn hoá, về văn chương và học thuật...

***

Ngót hai phần ba thế kỷ qua, tên tuổi Ngô Tất Tố trước hết và gần như bao quát là gắn liền với Tắt đèn (1938), “một tiểu thuyết có luận đề xã hội hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tùng lai chưa từng thấy”, theo cách nói của tác giả Giông tố, Số đỏ. Nhà văn hoàn thành tác phẩm ngay chính trên làng quê của mình, đã đào xới vào tận cùng các tầng sâu nỗi khổ của người nông dân như trên các luống cày của đất quê, trên số phận của những người thân kẻ sơ một vùng quê không xa ánh sáng thành thị là mấy, mà cứ như hun hút ngập vào đêm đen trung cổ.

Tắt đèn ra đời vào cuối những năm 1930, như một báo hiệu tức nước vỡ bờ. Chỉ dăm năm sau khi Tắt đèn ra mắt và bị cấm, sẽ diễn ra một cuộc cách mạng làm thay đổi tận gốc số phận người dân Việt Nam. Nhưng nếu sự vùng dậy là quyết liệt, làm đổi đời hai mươi lăm triệu con người thì cái giá phải trả cho sự đổi đời đó là hai triệu người gục xuống trong một cơn đói khủng khiếp, nối dài những cơn đói triền miên trong lịch sử. Người đói ăn rau má, củ chuối, cám bã, khô dầu, bã đậu... Người đói ăn tất cả những gì có thể ăn, và cả những gì không ăn được, miễn là không gây chết người. Cái “nghệ thuật làm no” bằng cách ăn đất sét, và cách pha chế nó sao cho có vị, để nuốt trôi được, của một người làng Ngô Tất Tố trong một chuyến nhà văn về thăm quê giữa mênh mông ngập lụt, quả là một cách chống đỡ đã nâng lên trình độ nghệ thuật để đánh lừa cả dạ dày và khẩu vị. Ở đây là “nghệ thuật làm no”, chứ không phải no thật. Chuyện no thật sẽ có những trang khác, như Một bữa no của Nam Cao. Nói là no, nó vẫn cứ là một biến dạng thê thảm của cái đói, và chết vì no là một cực khác của đói khổ và tủi hổ.

***

Hoá thân vào người nông dân nhưng Ngô Tất Tố vẫn là một nhà Nho, một trí thức Tây học, một kẻ Sĩ của nhân dân. Ông nhìn nhân dân với cái nhìn của người trí thức và đau nỗi đau của người trí thức, không phải cái nhìn và nỗi đau của người đứng ngoài “Họ khổ mà không biết rằng mình khổ, âu là mặc quách họ!” (Vũ Trọng Phụng). Người trí thức ấy có một trục đi - về quen thuộc là nông thôn và thành thị, là Từ Sơn – Hà Nội (nay là Đông Anh – Hà Nội). Gắn với đất quê, ông cũng đồng thời tách ra khỏi đất quê, để nhìn nông thôn chìm trong tối tăm từ phía ánh sáng thành thị, và nhìn rộng ra những vấn đề của một xã hội đang chuyển động giữa ngổn ngang những bất công và đói khổ, của sự phân cực giàu - nghèo, của những nhố nhăng và thối ruỗng được che đậy hoặc không cần che đậy. Tất cả đều có cách vào văn Ngô Tất Tố với những chạm khắc thật sắc sảo qua hàng trăm phóng sự, hàng nghìn bài bút chiến, tiểu phẩm, trên nhiều mặt báo, và qua hàng chục bút danh.

Nghề báo, đó cũng chính là lĩnh vực Ngô Tất Tố chiếm lĩnh ở vị trí cao, và tác giả Ngô Tất Tố - vẫn qua nhận xét của Vũ Trọng Phụng - là “một tay ngôn luận xuất sắc trong đám nhà Nho”. Ở đây bộc lộ sự quyết liệt, sâu sắc trong phê phán, phanh phui, lật trở các vấn đề của xã hội thuộc địa. Ở đây vừa tiếp tục các vấn đề của bóc lột, tước đoạt, vừa bổ sung các vấn đề về phong tục, lối sống, ứng xử của văn hoá làng xã và đô thị vào một buổi giao thời Đông - Tây, giao thoa mới cũ. Ở đây không hiếm các chân dung phản diện trong bộ máy chức dịch nhà nước từ thấp lên cao, được mở ra trên một biên độ khá rộng, từ Toàn quyền, Thống sứ, Khâm sứ đến Tổng đốc, nghị viên, dân biểu, rồi các loại nha lại, chức dịch, cường hào... Cũng ở đây hiện lên thấp thoáng chân dung nhà văn - người không hoà hợp được với hiện thực nhưng vẫn phải tồn tại và gắn bó với nó trong một khát khao cải tạo và thay đổi; nếu chưa phải là cách mạng, nếu đôi lúc có sa vào ảnh hưởng cải lương thì cũng là điều khó tránh; bởi lẽ trên cái gốc cơ bản là nhập cuộc, là yêu nước và thương dân, ông không một chút thoát ly, trốn lánh, hoặc sa vào những tìm kiếm siêu hình.

Quả không dễ hình dung di sản báo chí đặc sắc gồm nhiều nghìn bài ở Ngô Tất Tố nếu không thấy ở người trí thức yêu nước yêu dân này một sự căm ghét mọi tội ác đến từ nhiều phía, sự vô nhân, và những điều phi nghĩa trong quan hệ giữa người giầu, kẻ nghèo. Ở kho tiểu phẩm đồ sộ hơn tất cả mọi người viết đương thời nào của Ngô Tất Tố, có thể cho ta một sự hình dung, một bên là đời sống xã hội phong kiến - thuộc địa ở những mặt tối tăm, nhố nhăng và bi đát của nó; và bên kia là đời sống văn chương báo chí trong thế nương tựa vào nhau, làm nên đặc thù đời sống văn hoá những năm 1930 thế kỷ XX. Báo chí đã trở thành cái nôi sinh thành nền học Quốc ngữ và văn chương Quốc ngữ; và văn học đã đưa báo chí vào một trường lực hấp dẫn, sống động cho đời sống tinh thần, góp phần thúc đẩy nhu cầu dân trí và khát vọng dân chủ của con người và xã hội.

Bên người viết văn về nông thôn, nhà văn của dân quê đằm thắm tình người, Ngô Tất Tố còn là nhà báo sắc sảo của đời sống thành thị. Nông thôn và thành thị, biểu trưng cho đời sống dân tộc trong một cơn chuyển động lớn lao của lịch sử, của thế kỷ, biểu trưng cho sự giao thoa cũ và mới, của phương Đông và phương Tây, trong tự nguyện và bắt buộc, trong giao lưu và cách bức, trong riêng rẽ và gắn nối, trong bổ sung và tương phản, trong hoà hợp và đối nghịch... trên chặng cuối một thời kỳ chuyển động để hướng tới một giải pháp cách mạng, đã tìm được một cách phát ngôn, một kiểu đại diện ở Ngô Tất Tố.

***

Tư cách nhà văn hoá, học giả, người nghiên cứu dày dặn và sâu sắc về văn hoá dân tộc nói riêng và văn hoá phương Đông cổ truyền có thể được xem là phần cơ bản tạo nên cốt cách riêng của Ngô Tất Tố, so với nhiều đồng nghiệp cùng thời. Ông làm sách Lão Tử, Mặc Tử, dịch Kinh Dịch, Đường thi, nghiên cứu văn học Lý-Trần, viết sách Phê bình Nho giáo của Trần Trọng Kim... Những năm 1930 và trước đó, các vấn đề của dân tộc và văn hoá dân tộc đã được đặt ra, với nhiều động cơ, mục tiêu khác nhau. Có cái là nằm trong ý đồ của chính quyền thuộc địa, nhằm phục vụ cho các âm mưu của giai cấp thống trị. Có cái là cách tìm một lối thoát ly, độc lập với chính trị, để có một khu vực riêng, độc lập cho văn chương, học thuật. Thời gian rồi sẽ dần dần giúp cho sự nhìn nhận một cách công bằng các giá trị trên một sự phân tích khách quan hơn, mối quan hệ giữa các động cơ và hiệu quả.

Xứng đáng ở nhiều tư cách, nhưng với Ngô Tất Tố, nhấn mạnh lại tư cách nhà văn hoá, như một tư thế bao trùm, và là điểm tựa cho mọi lĩnh vực sáng tạo ngôn từ và bồi đắp cho tư duy hình tượng, luôn luôn đạt được độ cao sâu và các giá trị bền vững. Ông là nhà văn đứng cùng vị trí vinh quang của nhiều đồng nghiệp cùng thời như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao... Đồng thời ông có một vị thế riêng, ở giai đoạn 1930-1945, và cho đến hôm nay. Những đỉnh cao văn chương như ông có người đạt được, nhưng ông còn có thêm những giá trị mà nhiều người không có. Từ thời điểm hôm nay mà nhìn lại, một chân dung lớn, một sự nghiệp lớn trên cả hai tư cách: nhà văn, nhà văn hóa như Ngô Tất Tố là thuộc con số hiếm.

GS. PHONG LÊ
Nguồn: Văn nghệ số 25/2019


Thứ Tư, 17 tháng 7, 2019

Chuyện ít biết về tác giả 'Em ơi! Hà Nội phố' Phan Vũ qua 'Ta còn em'

Nhà thơ Phan Vũ đã qua đời sáng nay (17-7) tại TP.HCM, hưởng thọ 93 tuổi. Tập thơ "Ta còn em" của nhà thơ Phan Vũ được xem là có nhiều câu thơ “chạm vào tim ta, làm ứa ra những giọt hồng nóng hổi thương yêu lối xưa phố cũ”. Tập thơ cũng Giải Tác phẩm tại giải thưởng Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội năm 2018 do báo Thể thao & Văn hóa (TTXVN) tổ chức.
Nhà thơ Phan nổi tiếng hào hoa. Ảnh: Nguyễn Đình Toán

Tập thơ mới nhất của nhà thơ Phan Vũ - Ta còn em mở đầu bằng trường ca Em ơi Hà Nội phố với trọn vẹn 443 câu thơ chia thành 24 khổ.

Độc giả hẳn đã không còn xa lạ với Em ơi Hà Nội phố qua 21 câu thơ được nhạc sĩ Phú Quang phổ nhạc. Trường ca Em ơi Hà Nội phố được nhà thơ Phan Vũ viết năm 1972 tại căn gác nhỏ nhà ông trên phố Hàng Bún, với tâm trạng ám ảnh từ lời đe dọa "sẽ đưa Hà Nội trở về thời kỳ đồ đá"của Mỹ khi đưa B52 bắn phá thủ đô.

Phan Vũ không chỉ là nhà thơ, ông còn là đạo diễn, biên kịch và họa sĩ. Bởi vậy thơ ông đầy chất họa. Ông từng kể ngày trước hay cùng với họa sĩ Bùi Xuân Phái lang thang Hà Nội, Bùi Xuân Phái vẽ phố còn ông thì nghĩ về phố.

24 khổ thơ của Em ơi Hà Nội phố được ví như 24 bức họa về Hà Nội, vẽ từ chính kí ức và kỉ niệm của nhà thơ với thủ đô. Trong đau thương và khốc liệt, ông chắt lọc những gì đẹp nhất, yên bình, lãng mạn và thanh lịch nhất của Hà Nội để gửi gắm vào vần thơ.

Đạo diễn Đặng Nhật Minh, người từng thân thiết với nhà thơ Phan Vũ ngày cả hai cùng sinh hoạt tại phòng Đạo diễn ở Hãng phim truyện Việt Nam chia sẻ: "Những gì anh Phan Vũ đưa vào thơ đều xuất phát từ chính cuộc sống anh.

Như hình ảnh "Mùa Đông năm ấy tiếng dương cầm trong căn nhà đổ", ngày trước Phan Vũ có thầm mến một cô gái chơi dương cầm sống trên phố Chân Cầm, gần nhà máy điện Yên Phụ".

Ngày đó nhà thơ Phan Vũ thường cùng đạo diễn Đặng Nhật Minh tản bộ từ trụ sỡ Hãng phim truyện Việt Nam ở số 4 Thụy Khuê về nhà ông ở Hàng Bún. Mỗi lần như vậy, Phan Vũ lại đọc thơ và tâm sự với đạo diễn Đặng Nhật Minh. Trong đó không thiếu những câu chuyện về các bóng hồng.

"Phan Vũ yêu vợ, yêu cả những cô gái đẹp. Nói thế có vẻ mâu thuẫn nhưng những cô gái đẹp là nguồn cảm hứng cho chất lãng mạn của thơ Phan Vũ. Tôi biết ông chỉ yêu mến họ chứ không phải kiểu lăng nhăng", đạo diễn Đặng Nhật Minh kể.

Nhà thơ Phan Vũ vốn nổi tiếng là người lãng tử đào hoa, người mà "bằng chất giọng trầm ấm kể chuyện tình thì các cô gái cứ chết mê chết mệt", theo lời NPB Phạm Xuân Nguyên.

Song ông cũng nổi tiếng không kém với cuộc hôn nhân đẹp cùng người vợ đầu tiên, diễn viên Phi Nga (người đóng vai chính trong phim truyện điện ảnh cách mạng đầu tiên của Việt Nam - Chung một dòng sông). Gần 10 năm cuối đời, Phi Nga bị bệnh tim và tai biến mạch máu não không thể tự đi lại, chính Phan Vũ là người bên cạnh chăm sóc, cõng vợ đến tất cả các buổi sinh hoạt văn nghệ.

Mãi đến 30 năm sau khi Phi Nga qua đời, ông mới bước vào cuộc hôn nhân thứ 2 với Diễm Chi. Ngày ấy Phan Vũ 73 tuổi còn Diễm Chi 37.

Phan Vũ là người tài hoa, am hiểu văn hóa sâu sắc. Bởi thế sẽ thật thiệt thòi nếu chỉ biết đến ông qua Em ơi Hà Nội phố.

 Phần 2 của tập thơ Ta còn em giới thiệu những tác phẩm đặc sắc của Phan Vũ nhưng chưa có "nhân duyên" được biết đến rộng rãi, xoay quanh 3 chủ đề: tình yêu, thế sự, những bức chân dung tự họa bằng thơ.

Nhà thơ Dương Tường nhận xét: "Nghệ thuật của Phan Vũ để lại trong lòng công chúng một ấn tượng động mà át âm, là một vị ngọt ngào thơ man mác tình. Tình trong thơ Phan Vũ không chỉ là tình yêu nam nữ mà mở rộng ra đến biên độ mênh mông, cho nên tiếng "em" trong thơ Phan Vũ thật đa nghĩa và đầy cộng âm".

Khi ở tuổi ngoài 90, Phan Vũ vẫn vẽ tranh, làm thơ bằng điện thoại rồi đăng lên facebook, 1 2 năm trước vẫn chạy xe máy. Nhưng có mong ước cháy bỏng thì ông lại chưa thực hiện được, và có lẽ sẽ khó để làm được nữa, đó là "ra Hà Nội đọc thơ một lần".

Buổi ra mắt thơ Phan Vũ dù vắng bóng "nhân vật chính", bạn bè văn chương của ông và các khán giả vẫn biết cách lấp đầy khoảng trống ấy bằng những câu chuyện và cảm nhận riêng trong niềm cảm mến sâu sắc dành cho ông.

Phan Vũ, một gã lãng tử hào hoa, "gã du canh" với nghệ thuật. Một người chỉ ghé chân qua Hà Nội nhưng lại khiến cho những người con thủ đô phải giật mình nhận ra mình chưa hiểu gì về Hà Nội.

ĐÔNG HÀ
Theo TT&VH



Thứ Ba, 16 tháng 7, 2019

Chiếc lá xanh trên những cành xanh

Mười lăm mười sáu năm trở lại đây, độc giả yêu thơ quen thuộc với một nhà thơ nữ qua những tập thơ “Giọt mưa bất chợt” (2003), “Không dám tắt đèn” (2005, tác phẩm đã nhận tặng thưởng thơ của Hội Nhà văn TPHCM), “Đừng múc cạn nỗi buồn” (2008) và “Những vàm sông đêm” (2018). Tác giả của những tập thơ này là Nguyễn Thị Ánh Huỳnh...
Nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh.

Lần đầu tiên tôi biết đến thơ của Nguyễn Thị Ánh Huỳnh là khi chị gửi chùm thơ tham dự cuộc thi thơ chào mừng kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội mang tên là “Thơ về Hà Nội” do báo Văn nghệ và đài PT-TH Hà Nội phối hợp tổ chức. Đó là quãng năm 2008 – 2010. Thú thực khi đọc những câu thơ như “Ngó từ cửa sổ máy bay/ tạm biệt !/ Hà Nội dưới hai ngàn mét/ xanh một vệt cảm động/ còn ai đó chào em/ kìa sông Hồng / cuốn lấy thủ đô / yêu đương ì oạp” (Hà Nội hớp hồn ai) tôi đã “giật mình”. Thơ của Nguyễn Thị Ánh Huỳnh có gì đấy đầy nữ tính được ẩn trong “vẻ” mạnh mẽ và hiện đại.

Thế rồi được làm quen với chị nhưng mà chỉ được làm quen dưới dạng “kết bạn” trên FB. Ban đầu khi thấy “nick” ghi là “Chiếc lá trên cành” tôi đã ngại. Ngại lắm khi kết bạn với những ai dùng “nick” không sử dụng tên thật, nhưng rồi “sự ngại” nhanh chóng trôi qua. Tấm ảnh đại diện đã cho tôi sự tin cậy. Đó là một người đàn bà có nét mặt thân gần. Nhưng cho mãi tới giữa thu năm 2015 tôi và chị mới được trò chuyện nhiều hơn, dịp đó Hội Nhà văn Việt Nam tiến hành Đại hội lần thứ 9. Buổi tối trước ngày khai mạc, như thông lệ, các đại biểu sẽ có buổi “làm việc” trước khi Đại hội chính thức tại Khánh sạn La Thành. Vừa bước chân vào sảnh trong thì tôi thấy một dáng người nhanh nhẹn rời khỏi ghế ngồi tiến lại gần. Tôi hơi ngỡ ngàng vì bất ngờ nhưng cũng dễ dàng nhận ra chị. Nguyễn Thị Ánh Huỳnh “củng cố” thêm, chị cười nói nhỏ “Chiếc lá trên cành đây mà”. Vậy là hai chị em thân với nhau. Chị bảo “Truyện ngắn “Ngôi sao xanh xa ngát” của Văn mình thích lắm. Giá mà có tiền để làm phim nhựa thì tuyệt”. Tôi mừng lắm, mừng nhất là “các nhà văn còn đọc nhau”.

***

Nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh khi “U50” mới trình làng với tập thơ “Giọt mưa bất chợt” nhưng đã nhanh chóng “lấy lòng” được độc giả yêu thơ bằng một “lối” thơ khá hiện đại. Một sự muộn mằn? Tôi có lần hỏi nhưng nhà thơ chỉ mỉm cười, chị không nói. Tôi đành nói kiểu tự nói với mình: “Năm 2003 in tập thơ đầu tay để rồi 4 năm sau thành “nhà thơ” thực thụ, Nguyễn Thị Ánh Huỳnh vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 2007, chậm mà hóa ra nhanh”.

“Người con gái Long An” - mọi người đã thân mật gọi chị như vậy bởi mảnh đất Cần Đước ở nơi cuối dòng của con sông Vàm Cỏ Đông chính là quê hương chị. Cho dù sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn nhưng mà sao người đọc vẫn phải “thảng thốt cõi lòng” khi đọc thơ của chị, chắc là chị phải yêu quê hương miền hạ Long An đến nhường nào mới viết được những câu đầy ám ảnh "Đước à/ có tiếng cười lạt lẽo/ nhưng khóc không lạt lẽo/ khóc mặn/ một hôm/ những cây đước bước lên bờ thành người Cần Đước/ em - người đàn bà miền Nam gốc đước" (Cần Đước).

Nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh vốn là một cô giáo dạy văn cấp 2, cư trú tại quận 8, TP.HCM. Những năm 80 của thế kỷ trước, đời sống kinh tế khó khăn, lại một nách 3 con nhỏ nên chị đã nghỉ dạy để ra tạp hóa ở chợ Hoà Hưng. Trong cái thời buổi “gạo tiền” ấy. Trong cái thời buổi “cơm áo không đùa với khách thơ” ấy, năng khiếu thơ và niềm đam mê thơ ca của chị đã bị cuộc sống khốn khó phong toả. Những tưởng thơ ca sẽ chỉ là dĩ vãng, ấy vậy mà hồn thơ trong chị cứ “dùng dằng”. Chị kể: “Chỉ những lúc về khuya, những cảm nhận đời sống qua sự nhạy cảm của sợi dây tình cảm thi ca mới lại được trỗi dậy”. Và cứ thế cứ thế, cô cựu sinh viên Văn khoa Sài Gòn lại ngồi dậy âm thầm làm thơ. Những bài thơ viết vội. Viết như thể nếu không viết thì cảm thấy như mình đang mắc lỗi vậy. Hồn thơ trong chị ào ạt tuôn trào để rồi lặng lẽ đọng lại trên những trang giấy viết học trò. Nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh tâm sự: “Hai con trai học xong đại học mình mới dám in tập thơ đầu tay” (đó cũng là lúc chị trở thành hội viên Hội Nhà văn TPHCM).

Hóa ra là vậy. Với thơ, Nguyễn Thị Ánh Huỳnh chưa bao giờ “muộn” cả mà chị chỉ chờ dịp thích hợp thì mới công bố mà thôi. Thảo nào khi nghe tôi hỏi về sự muộn mằn chị chỉ mỉm cười chứ không nói.

Tôi được nghe kể rằng, một dạo ở Sài Gòn người ta cứ thắc mắc không hiểu vì sao có một người đàn bà bán bánh mì trên hè phố mà có nhiều nhạc sĩ đến để đặt hàng viết lời bài hát đến thế. Đấy là Nguyễn Thị Ánh Huỳnh. Nếu nói theo cách người ta hay nói bây giờ thì “Thơ của mình phải như thế nào người ta mới đặt làm lời ca khúc chứ”. Người đàn bà có vóc dáng nhỏ nhắn, gương mặt nhu lành, tính nét thân gần ấy tưởng như chì biết lo toan việc nhà chăm chút con cái, ấy vậy mà “tâm hồn dào dạt”. Người ta còn nói thêm, chị đã phải giấu chồng giấu con, đem những tờ giấy có lời bài hát (kiểu “lén lút” gửi những lá thư tình vậy) ra ngoài đầu đường để trao cho các nhạc sĩ và để nhận về chút ít tiền “nhuận bút” mà nuôi con và để trả nợ. Chuyện nghe vui vui, chuyện thơ nghe chen lẫn chuyện đời.
Bìa tác phẩm của Nguyễn Thị Ánh Huỳnh.

Nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh cho hay quê hương chị có thứ gạo Nàng Thơm ngon nổi tiếng, những ai đã một lần được bưng bát cơm nấu bằng gạo Nàng Thơm hẳn không thể nào quên được thứ mùi có vị ngọt ngào ấy. Được ăn gạo Nàng Thơm, được uống nước Vàm Cỏ Đông – dòng sông thi ca ấy và “má chôn cuống nhau em/ vào tiếng cuốc/ chiều miệt vườn gió lạc trong cây/ đêm bị thương bởi tiếng đờn cò/ chú Tư vuốt/ ánh trăng thành tiếng nấc/ miệt vườn/ gan ruột ai xuống xề câu vọng cổ” (Miệt vườn) mới thấy dù sống xa quê nhưng tình yêu quê hương chưa khi nào cạn nguôi trong chị.

Có lẽ vậy chăng mà đọc thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh, ta càng hiểu thêm về chị, nhất là khi nhà thơ từng trải qua quãng đời cơ cực của một gia đình trí thức, tần tảo vượt qua lận đận thời cuộc. Cay đắng nhiều, thêm quả ngọt, vợ chồng chị nuôi con khôn lớn, thành tài. Dù không còn những lãng mạn vẩn vơ song phía sau những câu chữ vẫn là màu lãng đãng mà chất chứa nhiều ân tình sâu nặng "Chúng ta lấy nhau/ vì khát/ giếng nước yêu/ đứt sợi dây gàu/... em ngó trời/ thấy giếng mọc thành sao". Hay như những câu thơ "Xin anh/ đừng múc cạn nỗi buồn/ trong đôi mắt em/ để em còn là giếng nước" (Đừng múc cạn nỗi buồn).

Có lần tôi hỏi nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh “Sao lại là chiếc lá trên cành?”. Chị cười: “Thì mình chỉ mong được như là một chiếc lá thôi”. Chất “con gái” vẫn là đấy, nhẹ nhàng và giản dị. Cái chất con gái trong thơ chị cho dù được biểu đạt bằng cảm nhận tâm hồn của một thi nhân hay diễn đại bằng những ngôn chất chứa cuộc sống thực nhưng chẳng thể nào lẫn được “bắc một cái thang/ là đèo Chuối/ bắc hai cái thang/ là đèo Bảo Lộc/ bắc ba cái thang/ là đèo Prenn/ em đã trèo lên mây/ bằng xe hơi/ Đà Lạt treo trên trời/ lửng hửng mù sương” (Bắc thang lên Đà Lạt).

Thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh đọc sao mà “sướng” những câu thơ không giấu giếm, không ngại ngùng nhưng vẫn cho thấy một trái tim con gái rất “mong manh”. Những câu thơ như sau chẳng hạn “Nhớ tối nào/ anh hôn em/ bầm dập cả trăng non/ giữa trưa nắng/ anh hôn em/ trời đất tối mù/ trong đêm đen/ không có anh/ em vẫn được hôn/ sáng thức dậy/ chẳng có ai hôn ai/ ngoài ban mai/ đang hôn từng/ giọt sương/ sắp khóc” (Nụ hôn).

Sau đại hội lần thứ 9 Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh được “ngồi” trong Hội đồng Thơ, đó không chỉ là vinh dự mà điều đó thể hiện “về sự đánh giá” tài năng thơ của một “giọng thơ” đất phương Nam. Tôi đùa: “Được thiên hạ vị nể là nhất rồi còn gì”. Nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh lắc đầu “Ngồi để làm việc cho công bằng, cho tử tế thì là một áp lực không hề nhỏ”. Rồi Hội đồng Thơ được lập mới theo định kỳ lại không thấy tên chị. Thôi cứ làm thơ bằng suy nghĩ của mình. Đấy, chùm thơ của chị mới in trên báo Văn nghệ hôm mùng 8 tháng 6 đấy. Hay “quá xá” luôn.

Tại sao lại là “Chiếc lá trên cành” nhỉ? Tôi chợt hiểu ra: “Thà làm một chiếc lá xanh trên những cành xanh còn hơn, chị nhỉ?”.

NGUYỄN TRỌNG VĂN
Theo Tinh Hoa Việt



Thứ Hai, 15 tháng 7, 2019

Nhà thơ Huy Cận với quê hương, dòng tộc

Nhiều người thường nhớ, thường nhắc về một chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm bởi tuyệt bút của Hoài Thanh - nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận... Nhưng có lẽ ít người biết về một Danh nhân văn hóa Cù Huy Cận với mối quan hệ bền chặt, đầy nghĩa tình thủy chung cùng quê hương, dòng tộc, từ lúc sinh ra cho đến phút cuối đời...
Nhà thơ Huy Cận (thứ 2 từ phải sang) với các nhà thơ trẻ Sài Gòn: 
Trần Hữu Dũng, Phan Hoàng, Nguyễn Thái Dương ở Hà Nội năm 1994

1. Huy Cận sinh ngày 31-5-1919 (cũng có tài liệu nói ông sinh ngày 22-1-1917) tại xã Ân Phú, thời đó thuộc huyện Hương Sơn, sau chuyển về Đức Thọ và nay là huyện Vụ Quang, Hà Tĩnh.

Ân Phú tuy chật hẹp (diện tích khoảng 9 km2, dân số hơn 2.000 người) nhưng sơn thủy hữu tình, giáp ranh giữa ba huyện Vũ Quang, Hương Sơn và Đức Thọ. Tên Ân Phú hiện cũng có nhiều cách giải thích khác nhau, nhưng nghĩa chung là giàu có, thịnh vượng - xuất hiện từ đầu thời Tự Đức (1847). Đây không chỉ là vùng đất hiếu học, giàu truyền thống văn hóa mà còn nổi tiếng yêu nước, cách mạng với nhiều người tham gia các phong trào Cần vương, yêu nước, có 59 liệt sĩ qua các cuộc kháng chiến. Hiện nay, Ân Phú đang là một điểm sáng về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; đã đạt chuẩn nông thôn mới từ khá sớm...

Cùng với họ Trần và họ Nguyễn, họ Cù là một trong ba dòng tộc đầu tiên có công khai ấp lập làng. Trong số 32 vị tiên hiền, hậu hiền được nhân dân thờ tự cho đến nay, có đến bảy vị họ Cù. Theo hồ sơ khoa học di tích lịch sử văn hóa Đền Vại, thì ngoài dòng tộc Cù Hoàng từ Quỳnh Lưu chuyển cư vào, họ Cù Huy tôn Binh bộ Thượng thư Cù Ngọc Xán là tiên Thủy tổ. Tuấn vũ hầu Cù Ngọc Xán được nhà Lê ban quốc tính, sau được phong tước Vương, thờ tại Đền Vại với mỹ danh Tượng Sơn Cao Liệt tôn thần. Ông là phu quân của bà Ngô Thị Ngọc Điệp, sinh khoảng đầu thế kỷ XV, con gái thứ 14 của Dụ Vương Ngô Từ, hậu duệ thứ 13 của Ngô Quyền; bà cũng là chị của Ngô Thị Ngọc Dao, mẹ vua Lê Thánh Tông. Bà Ngọc Điệp là Quận Quân Á tước, được phong thần là Lê Triều Hoàng hậu, mất ngày 13 tháng 2 âm lịch tại Trại Đầu - Ân Phú và trở thành người mẹ tinh thần của vùng đất này trong suốt 600 năm qua; riêng Triều Nguyễn đã có bảy sắc phong.

Như vậy là sự hợp duyên giữa hai dòng tộc Cù - Ngô của vị Thủy tổ đã mang lại cho làng xã, dòng họ một sức sống bền bỉ, một truyền thống văn hóa, yêu nước xuyên suốt năm thế kỷ. Và đến thế kỷ 20, không biết có lời “mách bảo” nào từ nguồn cội không mà hai thi sĩ chủ tướng của phong trào Thơ Mới, Cù Huy Cận - Ngô Xuân Diệu đã kết thân ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên trên đất Huế, tạo thành một Tình Bạn lớn hết sức đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam.

Hỡi ai đó, có nhớ chàng Huy Cận
Gọi gió trăng mà thỏ thẻ với lời trên
Rất thương yêu, xin nhớ gọi giùm tên
Rất an ủi của bạn chàng: Xuân Diệu

(Thơ Huy Cận - Mai sau)

Chi nhánh họ Cù Huy có thủy tổ là Cù Thạch Khối đến Huy Cận là tám đời. Khoảng năm 1942, họ Cù Huy lại tách thành hai cánh. Huy Cận là con trai đầu của cụ Cù Trương, từng thi Hương trúng Tam trường, sau theo học Quốc ngữ, chữ Tây, hết cấp Tiểu học được bổ làm Hương sư ở Thanh Hóa một thời gian, sau về quê dạy học, cày ruộng. Mẹ là bà Bùi Thị Chi sinh trưởng trong một gia đình có nhiều người đỗ đạt ở làng dệt lụa Hạ nổi tiếng vùng Tùng Ảnh.

Đường về Ân Phú quê cha
Sông La uốn khúc Mồng Ga núi gần,
Đường về quê mẹ quen chân
Tam Soa bến cũ mấy lần đò xuôi

...Một đời mòn gót nghìn đường
Bước về đầu xóm rưng rưng lệ nhòa...

2. Đọc “Hồi ký song đôi” (Nxb Hội Nhà văn, H. 2011), ta sẽ nhận thấy quê hương Ân Phú nói riêng và Hà Tĩnh, xứ Nghệ nói chung thật sự là mạch nguồn của rất nhiều tác phẩm văn học của Huy Cận. Xuân Diệu từng nhận xét - quê hương đã cung cấp cho Huy Cận một cái vốn đất đai gì sâu thẳm lắm như từ ruột của thời gian. Và chính Huy Cận trong bài thơ “Tôi nằm nghe đất” đã chia sẻ:

Tôi sinh ra ở miền sơn cước
Có núi làm xương cốt tháng ngày
Đất bãi tơi làm da thịt mát
Gió sông như những mảng hồn bay...

Quê hương hiện ra trong thơ Huy Cận thật cụ thể, yên bình:

Tuổi nhỏ tôi trùm trong nhớ thương
Cách sông chợ Nướt, bến đò sương
Làng quê sơn cước chiều về sớm
Bóng núi dài lan mát ruộng nương...

Mãi sau này, trong bài thơ “Yêu đời” ông cũng nhắc lại: Quê anh cà nhút mặn mòi/ Sinh anh muối mặn yêu đời, đó em! Khung cảnh làng quê cũng chính là thi hứng trực tiếp của những tuyệt thi như “Tràng Giang”, “Ngậm ngùi” và nhiều sáng tác sau 1945.

Đặc biệt, trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông đã để lại hai thi phẩm nổi tiếng như để tri ân quê hương - “Gửi người xứ Nghệ” đã được phổ nhạc và thành bài ca “đi cùng năm tháng” (Ai vô xứ Nghệ), và “Ngã ba Đồng Lộc” - như dựng thêm một tượng đài vĩnh cửu bằng thi ca:

Trong đời mỗi dân tộc cũng có những ngã ba/ Những ngã ba vận mệnh/ Những cái nút trên dặm dài lịch sử/ Gặp những ngã ba đời con sẽ nghĩ suy/ Và con ơi, muốn tìm đúng hướng đi/ Con sẽ nhớ đến ngã ba Đồng Lộc/...Là ngã ba nhưng nào có phân vân/ Nào có đắn đo do dự!/... Nhưng hướng đi đã quyết/ Không phải cho một lần/ Mà cho tất cả mọi lần/ Không phải cho một người/ Mà cho tất cả quê hương, đất nước...

Với những thành công lớn trong sự nghiệp chính trị và đặc biệt là sự nghiệp văn hóa, văn học, người đầu tiên của Việt Nam được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ thế giới (2001), hoặc như nhận xét của Vũ Đình Minh - nhà thơ hoạt động chính trị, nhà văn hóa lừng danh vượt qua cả biên giới quốc gia để hòa nhập vào dòng văn hóa của thế giới - Huy Cận đã thật sự mang lại niềm vinh dự, tự hào cho dòng tộc và quê hương Hà Tĩnh.

3Sinh thời, Huy Cận dành rất nhiều tâm huyết, tình cảm cho quê hương. Ngày thơ Việt Nam lần đầu tiên (2003) được Hội Nhà văn tổ chức tại Khu di tích Đại thi hào Nguyễn Du (Nghi Xuân, Hà Tĩnh), nhà thơ Huy Cận đã về dự, đánh trống khai hội và phát biểu, đọc thơ rất say sưa. Ông cũng tranh thủ mọi cơ hội để về thăm, động viên, giúp đỡ quê hương, dòng tộc.

Mặc dù rất bận rộn với nhiều hoạt động khác nhau nhưng ông vẫn không quên trách nhiệm của một Tộc trưởng dòng họ. Ông đã trực tiếp lập gia phả, viết lời mở đầu rất thống thiết: “Chim có tổ, người có tông. Chúng ta là các lớp hậu duệ của tổ tiên xem, thuộc tộc phả để ghi lòng tạc dạ tinh thần thương yêu đùm bọc lấy nhau của cha ông, cố kết với nhau vì tình nhà nghĩa nước. Tộc phả cũng là lịch sử của họ ta, một họ tuy không đông người nhưng đã có đóng góp xứng đáng vào công việc của quê hương, làng nước. Có thuộc quá khứ mới mở mang được tương lai. Xin bà con trong họ giữ gìn và phát huy ý nghĩa, tác dụng giáo dục của bản tộc phả thiêng liêng này”.

Năm 2002, ông viết “Di chúc về vấn đề lưu niệm”, trong đó khẳng định việc được thờ tự tại quê nhà: “Vợ con tôi sẽ thờ tôi tại nhà và đất ở của tôi ở 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội và thờ tôi tại nhà thờ họ Cù Huy cánh tiểu tôn ở xã Ân Phú, tỉnh Hà Tĩnh”.

Sau khi ông mất (19-2-2005), nhà thờ họ Cù Huy đã được tôn tạo lại và đang làm hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử văn hóa ngay trong dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Danh nhân văn hóa - Nhà thơ Huy Cận (1919 - 2019). Khép lại một đời bôn ba khắp bốn phương trời, cống hiến hết mình cho đất nước, từng giữ nhiều chức vụ trọng yếu như bộ trưởng, thứ trưởng và đại diện cho quốc gia tại nhiều tổ chức, diễn đàn văn hóa, chính trị quốc tế, để lại cho hậu thế gần 50 đầu sách, trong đó có nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Pháp hoặc được xuất bản ở nước ngoài, được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt đầu tiên (1996), Huân chương Sao Vàng cao quý..., nay ông đã được về với tổ tiên, dòng tộc, được bà con làng xã tri ân, thờ phụng như một nhân thần của quê hương, đất nước.

TS. VÕ HỒNG HẢI
Nguồn: Nhân Dân



Thứ Sáu, 12 tháng 7, 2019

Tâm thức viết về lịch sử

Tôn trọng lịch sử ở những điểm mấu chốt và rõ ràng. Có những vấn đề, sự kiện lịch sử đã được coi là sự hiển nhiên và chính xác thì nhà văn cần có sự tôn trọng khi viết về nó. Người viết có thể hư cấu nhiều điều, thậm chí có một cái nhìn khác hẳn nhưng những cột mốc lịch sử, những vấn đề đã được coi là tâm thức của dân tộc được số đông cộng đồng chấp nhận thì người viết phải tôn trọng...

Những năm gần đây, có thể do những diễn biến phức tạp về cương vực lãnh thổ hoặc theo một chu kì vận động tự nhiên, lịch sử trở thành một đề tài được nhiều người cầm bút quan tâm. Đã có nhiều thành tựu văn học về đề tài này mà bước ngoặt có thể nói đến hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp, khi nhà văn viết một loạt truyện ngắn về lịch sử với một cảm quan mới. Sau Nguyễn Huy Thiệp đã có nhiều nhà văn theo đuổi đề tài này và có những thành công nhất định.
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.

Đề tài lịch sử tất nhiên đã được sự quan tâm từ lâu của giới cầm bút,. Ngay từ giai đoạn trước năm 1945 đã có  nhiều các nhà văn viết về lịch sử như Khái Hưng, Nguyễn Triệu Luật, Lan Khai, Nguyễn Huy Tưởng… rồi bỗng một quãng thời gian, đề tài lịch sử dường như bị chùng xuống, nhường sự quan tâm cho những đề tài có thể được coi là mang tính cấp thiết hơn hoặc được sự quan tâm, đầu tư nhiều hơn.

Và như tôi đã nói từ đầu, trong quá trình vận hành của xã hội và dân tộc, khi những vấn đề liên quan tới chủ quyền dân tộc được đưa ra một cách gay gắt và cấp thiết như bây giờ thì sự nhìn nhận về lịch sử và viết về nó dường như trở thành một dòng rất mạnh. Đó có thể là một cách lí giải về sự “hồi sinh” hoặc nhu cầu tự thân của văn học viết về lịch sử. Hoặc có một cách lí giải nữa cho sự biến chuyển này, rằng ở thời điểm hiện tại, khi các đề tài của văn học được nhìn nhận một cách công bằng và khách quan hơn, nhất là ở tâm thế chính thống thì rõ ràng lịch sử là một nguồn hấp dẫn và cấp thiết.

Trong một thời gian khá dài, dù không có bất cứ sự hạn chế nào nhưng dường như đề tài lịch sử có khoảng trống nhất định. Hoặc các nhà văn viết về đề tài lịch sử theo một tâm thức cũ mà ở thời điểm hiện tại, những yêu cầu về đổi mới văn chương và cách nhìn nhận về lịch sử đòi hỏi phải thay đổi. Các nhà văn hoặc viết bằng cảm quan mới, cách tiếp cận mới thì những câu chuyện lịch sử dường như đã bị ngủ quên hoặc nhạy cảm hoặc không đáp ứng đủ nhu cầu đã được đánh thức dậy, mở ra những chiều kích mới, khát khao mới thì một làn sóng quan tâm tới lịch sử và viết về nó càng bùng lên mạnh mẽ.

Là một người sáng tác, tôi muốn đưa ra những quan niệm của riêng mình khi viết đề tài lịch sử.

1.Tôn trọng lịch sử ở những điểm mấu chốt và rõ ràng. Có những vấn đề, sự kiện lịch sử đã được coi là sự hiển nhiên và chính xác thì nhà văn cần có sự tôn trọng khi viết về nó. Người viết có thể hư cấu nhiều điều, thậm chí có một cái nhìn khác hẳn nhưng những cột mốc lịch sử, những vấn đề đã được coi là tâm thức của dân tộc được số đông cộng đồng chấp nhận thì người viết phải tôn trọng. Vì nếu các vấn đề căn bản của lịch sử không được tôn trọng thì người đọc sẽ bị mất phương hướng, không biết lịch sử mình đã từng biết và những gì nhà văn hư cấu nên có sự khác biệt thế nào.

Ví dụ trận đánh của Vua Quang Trung năm Kỉ Dậu (1789) quét sạch quân Thanh ra khỏi bờ cõi và tướng giặc là Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự vẫn là sự thật rõ ràng. Các nhà văn không thể hư cấu rằng Vua Quang Trung thua trận đó được và Sầm Nghi Đống chạy thoát về nước.

Nhà văn có thể biến hoá về cách đánh của Vua Quang Trung, tâm lí của ông khi ra trận hoặc diễn biến cái chết của Sầm Nghi Đống nhưng hai sự kiện mấu chốt kể trên thì không thể thay đổi được. Nhà văn có thể có những khác biệt theo cách nhìn, quan điểm nhưng nếu xoay ngược 180 độ thì đó sẽ là một tình thế hết sức nguy hiểm. Lịch sử không phải lịch sử nữa. Người ta còn không biết tin vào ai nữa và từ đó, sự tiếp nhận lịch sử qua văn học sẽ mất phương hướng, có hại cả cho lịch sử và đối tượng nó tác động đến. Nhà văn có thể trở thành người phản bội lịch sử và chính dân tộc mình.

2. Lịch sử là niềm cảm hứng, chỗ dựa để cho sự sáng tạo. Tôi nói điều này vì có rất nhiều vấn đề, nhiều nhân vật có nguồn tư liệu rất dồi dào, nhà văn dựa vào đó để sáng tạo những sản phẩm nghệ thuật với cái nhìn của văn học chứ không sao chép lịch sử, mô phỏng nó. Nếu người cầm bút đơn thuần sao chép lịch sử thì anh ta đã giẫm chân vào người viết sử và thứ nữa, quá trình sáng tạo sẽ trình thụ động, nhăm nhăm copy, chép lại lịch sử và chắc chắn người đọc cũng không quan tâm tới những tác phẩm mang tính bản sao vụng về này.

Sao chép lịch sử vừa đánh mất sự sáng tạo của nhà văn, vừa không kích thích được độc giả quan tâm, tìm hiểu lịch sử theo một tâm thế mới và vô hình trung không có lợi cho sự truyền bá tư tưởng hay khơi gợi tìm hiểu những hấp dẫn mà bất cứ nguồn sử liệu nào cũng tiềm tàng. Tôi ví dụ một nhân vật lịch sử gây nhiều tranh luận là công chúa An Tư.

Trong chính sử chỉ có vài dòng vắn tắt rằng nàng được gả cho Thoát Hoan làm kế hoãn binh trong tình thế hiểm nghèo của đất nước, nhưng thân phận nàng thế nào, cuộc hôn phối đầy tính toán và có thể là bi kịch này sau đó ra sao thì vẫn là một khoảng trống mờ mịt. Chính câu chuyện này là mảnh đất màu mỡ và là niềm cảm hứng dồi dào cho các nhà văn sáng tạo. Chỉ cần vài dòng vắn tắt của lịch sử cũng có thể dựng những bộ tiểu thuyết lớn.

3. Nhìn nhận lịch sử theo một cảm quan riêng của người viết. Điều này dường như mâu thuẫn với điều thứ nhất nhưng lại không phải. Nó là sự bổ sung hỗ trợ cho nhau. Người viết vừa tôn trọng những điểm mấu chốt của lịch sử vừa có cái cách nhìn riêng của mình. Tôi ví dụ nhân vật Trần Khánh Dư trong thời đại nhà Trần là một người rất tài ba trong trận mạc nhưng cũng đầy tai tiếng trong tình ái.

Tôi tôn trọng những điều căn bản về ông nhưng khi chính sử chép lại chuyện Trần Khánh Dư lợi dụng chức vụ của mình ở biên ải để buôn nón Ma Lôi thì trong tiểu thuyết “Sương mù tháng Giêng” của mình, tôi nhìn nhận vấn đề này theo một quan điểm riêng. Tôi (Uông Triều) cho rằng việc buôn bán như vậy chứng tỏ Trần Khánh Dư là một nhân vật rất thức thời, đã biết tận dụng (lợi dụng) tình huống để cải thiện cuộc sống của mình chứ không thụ động chỉ chờ đợi bổng lộc của triều đình.

Ngoài việc chê trách ông đã lợi dụng địa vị của mình để kiếm lợi thì rõ ràng viên tướng từng đánh trận Vân Đồn lừng danh - tiêu diệt đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ, tạo bước ngoặt căn bản trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ ba cũng rất thạo nghề buôn bán và nắm được quy luật thị trường!

4. Lịch sử để soi chiếu hiện tại. Rõ ràng có rất nhiều những vấn đề lịch sử được lặp lại ở thời hiện đại và chúng ta có thể học tập từ nó. Ví dụ vấn đề bang giao với phương Bắc, vấn đề tiệt trừ tệ tham nhũng hối lộ, các tiền nhân trong qua khứ đã thực hiện những việc này nhiều lần, lúc thành công, lúc thất bại và chúng ta có thể phân tích sự việc đó để học tập. Thậm chí tôi cho rằng những thất bại của lịch sử nhiều khi còn đáng học tập hơn vì nó giúp ta tránh được những vết xe đổ đã nhìn thấy trước. Ví dụ vấn đề cấm đạo của nhà Nguyễn đã từng gây ra những hậu quả khôn lường và dai dẳng với lịch sử. Hay cũng là vấn đề từ chối đổi mới, mở cửa khi những trí thức như Nguyễn Trường Tộ nêu ra đã không được ủng hộ đã góp phần làm suy yếu nhà Nguyễn vì sự bảo thủ của mình.

Nhà văn nên ý thức được điều này, câu chuyện của lịch sử là bài học có ích cho hậu thế, anh ta nhấn mạnh những điểm cần chú ý, phân tích, mổ xẻ dưới cảm quan văn học và người đọc có thể thấy được tác dụng của lịch sử và vẫn hấp dẫn bởi nghệ thuật. Nhà văn không phải viết một truyện lịch sử vô tăm tích mà người đọc có thể soi chiếu vào đó và tìm ra những ý nghĩa cho riêng mình.

Thành công của nhà văn là khi đọc xong tác phẩm, người đọc phải suy ngẫm về nó, anh ta day dứt về điều gì đó qua những thông điệp tường minh hay hàm ẩn của lịch sử. Một tấm gương sáng hoặc mờ trong quá khứ để soi vào, anh ta thấy có ích và ý nghĩa khi đọc câu chuyện lịch sử đó.

5. Nhà văn cần có bút pháp hấp dẫn. Có những sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử giàu cá tính và chỉ cần kể lại một cách khéo léo đã hay rồi nhưng có những chuyện khác cần phải kì công và dùng rất nhiều trí tuệ và sáng tạo của nhà văn. Có hai cuốn tiểu thuyết mà tôi rất thích thú là cuốn “Hồ Quý Ly” của Nguyễn Xuân Khánh và cuốn “Giàn Thiêu” của Võ Thị Hảo.

Nguyễn Xuân Khánh thì tập trung vào luận điểm trí thức trong thời đại của mình còn Võ Thị Hảo thì tập trung nhiều hơn vào ngôn ngữ và hình ảnh lịch sử. Nguyễn Xuân Khánh đã thành công về luận điểm con người trí thức nhưng chữ nghĩa của ông không thật trau chuốt, sắc bén. Còn Võ Thị Hảo thì có một bề ngôn ngữ đầy sắc sảo, hình ảnh ấn tượng dù vấn đề đặt ra của tiểu thuyết không nổi trội như Nguyễn Xuân Khánh.

Điều tôi muốn nói qua hai ví dụ ở trên rằng, mỗi nhà văn sẽ chọn lựa một cách viết riêng phù hợp với sở trường và sở thích của mình để đạt được hiệu quả cao nhất. Tôi muốn nhấn mạnh rằng, bất cứ cách viết nào cũng cần tạo ra sự hấp dẫn và khơi gợi với độc giả, vì nếu không làm được thế thì dù tư tưởng của anh có lớn lao thế nào, anh có rèn giũa chữ nghĩa công phu ra sao nhưng độc giả dửng dưng, không quan tâm thì anh đã thất bại từ bước đầu tiên. Vì nói cho cùng tác phẩm nghệ thuật phải có độc giả, không có độc giả thì cả nhà văn và tác phẩm của anh ta đều sẽ chết theo đúng nghĩa đen của nó!

UÔNG TRIỀU
Theo VNCA


Đông Trình – Người đi “giữa thực và mơ”

Saint - John Perese đã xác quyết: “Nhà thơ tuy chẳng muốn cũng thấy mình bị ràng buộc vào cuộc chuyển biến của lịch sử. Và trong bi kịch của thời đại, không có sự gì y chẳng quan tâm.”Có thể nói, điều này rất đúng với thơ Đông Trình cũng như những nhà thơ cùng thế hệ với anh khi họ phải sống qua những biến động của lịch sử dân tộc với tư cách là người trong cuộc.
Nhà thơ Đông Trình (bên trái) và nhà thơ Thanh Quế

1.
Không phải ngẫu nhiên, trong hành trình sáng tác thơ của mình, khi làm tuyển tập thơ viết cho thiếu nhi, Đông Trình lại đặt tên cho tập thơ là Đi giữa thực và mơ(Nxb. Đà Nẵng, 2009). Còn Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện thì cho rằng: “Đọc thơ Đông Trình, nhiều lúc bắt gặp những chuyện mơ mơ thực thực.” Nhận định mang tính luận đề này của một Bác sĩ, một nhà nghiên cứu tâm lý và văn hóa danh tiếng như Nguyễn Khắc Viện, chắc hẳn không phải là chuyện “nói cho vui” mà chính là đúc kết những cảm nhận từ sự nghiệm sinh của một người đã trải qua nhiều “bão giông” cuộc đời đối với thơ của một thi nhân đã và đang đi qua cuộc nhân sinh gắn với những thăng trầm của lịch sử đất nước mà thi nhân không chỉ trải nghiệm nhưng còn dự phần như một chứng nhân. Thơ Đông Trình, vì thế, là thơ của một sự kết tinh từ hành trình sống của anh trong sự song hành với lịch sử dân tộc mà dấu ấn lịch sử ấy đã trở thành một ám ảnh trong anh và những người cùng thế hệ, một thế hệ luôn mang khát vọng về một xã hội, ở đó những giá trị nhân văn như: dân chủ, tự do, công bằng, bác ái… được đề cao, gìn giữ và trân quí. Nhưng cuộc đời không phải lúc nào cũng đẹp như những giấc mơ mà còn có cả sự hiện hữu của những cái thực. Và những cái thực ấy, nhiều khi trần trụi đến đớn đau, cho dù con người không chấp nhận thì nó vẫn tồn tại như một phần tất yếu của đời sống. Thơ Đông Trình, vì thế là thơ luôn đi giữa hai bờ thực và mộng, giữa có và không, giữa hiện hữu và không hiện hữu, trong cuộc nhân sinh vốn đầy những bất an này. Và đây là một căn phần tạo nên thi giới riêng của thơ Đông Trình trong hành trình sáng tạo.

2.
Từ tập thơ “Rừng dậy men mùa”, Đối Diện xuất bản lần đầu năm 1972 ở miền Nam trong giai đoạn 1954-1975, Đông Trình đã trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của khuynh hướng thơ ca yêu nước dấn thân trong phong trào đấu tranh của tuổi trẻ ở đô thị miềm Nam. Tập thơ là sự kết tinh những khát khao của tuổi thanh xuân đầy mộng mơ về một đất nước tươi đẹp, hòa bình nhưng cũng là chứng từ ghi lại những nỗi đau, mất mát, từ hiện thực cuộc sống gian khổ trong những năm tháng chiến tranh. Tình tự dân tộc trong thơ Đông Trình, vì thế rất thiết tha, sâu lắng, có sức lay động lòng người, góp phần thức nhận tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược giành độc lập tự do cho tổ quốc: “Muôn dặm hề ta yêu Việt Nam/ Dân tộc ta bất khuất kiên cường. / Lịch sử ta bốn ngàn năm lập quốc/ Máu từ Cà Mau máu thắm Nam quan.” Và từ trong hiện thực lịch sử hào hùng của dân tộc, thơ Đông Trình lại hướng đến những mơ ước, khát vọng ở tương lai: “Ta vỗ thơ mình như cánh chim/ Như gió vô tình chở nắng qua đêm/ Có tiếng hát nào không là sứ điệp?/ Rất kiêu hùng ta đậu giữa anh em./ Tiếng ta cao hề không ai theo tới/ Lời ta sâu như lịch sử giống nòi./ Ta bước đi hề ra ngoài bóng tối/ Trên cây đời ta ươm nụ tương lai.” (Hành trình cho một tương lai đã nhìn rõ mặt)… Trong cuộc sống hôm nay, đọc những câu thơ này, chúng ta có thể nghĩ, đó cũng là điều bình thường, không có gì đáng để quan tâm. Song, nếu ta chịu khó lắng lòng mình, trở về với khí quyển của xã hội miền Nam trong những tháng năm đấu tranh gian khổ, giành chủ quyền cho dân tộc, mới thấy hết giá trị của tinh thần trách nhiệm và ước vọng về một tương lai tươi sáng của đất nước trong tầng lớp trí thức dấn thân ở miền Nam trước 1975. Và đây cũng là minh chứng về sự gắn kết cảm thức giữa thực và mơ trong thơ Đông Trình.
        
Trong tập “Rừng dậy men mùa”, cảm thức mơ và thực này ta còn bắt gặp ở nhiều bài thơ khác như Trong thành phố cổ tíchNgười ngồi nhớ núi; Một lần là trăm năm; Đời không bằng mộng; Tình về… mà ở đó có những câu thơ, khi đọc lên ta không khỏi thấy nao lòng: “Ngỡ mùa đã cuối xuân xanh/ Nhưng hoa nụ thắm trên cành còn rung/ Bãi xao xác gió vô thường/ Tay hoàng hôn vẫy còn vương chân ngày.” (Tình về) Chính vì vậyđọc “Rừng dậy men mùa” của Đông Trình, ta không chỉ bắt gặp trong đó những câu thơ phản ánh về hiện thực chiến tranh với những lời kêu gọi, hiệu triệu cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, cho độc lập tự do của dân tộc mà còn thấy ở đó những mộng mị của tình yêu thánh thiện, sáng trong. Và đây cũng là hiện thân của những giấc mơ giữa đời thực mà không có nó, thơ Đông Trình khó có thể neo đậu được trong tâm thức người đọc. Phải chăng, chính những bài thơ này đã làm cho thơ Đông Trình không phải là thơ của một thời (thời tranh đấu) mà đó là thơ của một đời vì nó chạm đến một phương diện không thể thiếu trong đời mỗi con người đó là Tình Yêu, mà những cái thực và mơ trong cõi yêu luôn là những giá trị bất biến.
       
Thế nên, tôi thích những câu thơ thừa mơ mộng nhưng cũng không thiếu nỗi đau trong thơ tập “Rừng dậy men mùa” của Đông Trình hơn những câu thơ mang hào khí tranh đấu hùng hồn nhưng thiếu một chút lắng sâu trong mỹ cảm nghệ thuật vốn là một yếu tính của thơ. Bởi, ở những câu thơ đó không chỉ có những mỹ cảm đẹp mà còn có cả sự thành thực đáng yêu trong tâm cảm của thi nhân. Ta hãy lắng nghe nhà thơ tình tự: “Ngỡ mình đã mất trong nhau/ Nhưng mưa thu kết hoa đầu còn thơm. /Tôi về tay lã ngón buồn/ Em câu tình nhớ ôm tròn nét môi./ Ngỡ người đã chết trong tôi/ Nhưng trên đỉnh nhớ mây trời còn bay./ Tôi thức đêm tôi thức ngày/ Ôi sao tôi lại tự đày đọa thân?” (Tình về). Và không chỉ có Đông Trình mà đã là thi nhân, dường như ai cũng phải trải qua những nỗi đau tình ái. Nỗi đau ấy nhiều khi ám ảnh suốt cả đời người và đi vào cả những giấc mơ với biết bao mộng mị vô thường.
   
Thơ bao giờ cũng là một thực thể luôn đi giữa hai bờ mơ và thực. Không có thực thơ sẽ nhạt vì nó không có gia vị của cuộc sống vốn là điều không thể thiếu trong phẩm tính của thi ca cũng như trong sáng tạo văn chương. Nhưng không có mộng mơ thì thơ không còn là thơ nữa vì lúc đó thơ chỉ là một con ve với cái xác không hồn. Bởi nói như Đông Hồ: “Thơ là mộng trong mộng. Mộng đã là khó bắt gặp được huống còn là mộng trong mộng nữa, thì còn khó bắt gặp biết bao. Cuộc thế dầu là thực thể vẫn là một thực thể mị thường. Hình bóng thơ không phải là một thực thể. Như vậy thơ còn mị thường hơn hình bóng mị thường.” Đã có một thời, chúng ta quá đề cao cái thực trong thơ mà không quan tâm đến cái mơ mộng, vốn là một yếu tính của thơ, biến thơ trở thành một thứ văn chương minh họa nghèo nàn, khô khan, nên không thể sống bền lâu trong tâm thức và tâm cảm người đọc. Nhà thơ có phẩm tính thi sĩ là nhà thơ biết tìm cái mơ trong cái thực và tìm cái thực trong cái mơ để tạo nên một sự hài hòa trong thơ  mình. Thơ Đông Trình là thơ của một sự kết hợp hài hòa giữa thực và mơ. Cái thực và mơ ấy luôn hiện hữu trong thơ anh như một phẩm tính thi ca. Điều này không chỉ thể hiện ở thơ viết trước 1975 của anh mà ngay cả những tập thơ viết sau 1975, nhất là khi phải trải qua những năm tháng khó khăn của thời bao cấp cũng như trước những nhiêu khê của cuộc sống, khi đất nước bước vào thời kỳ kinh tế thì trường. Vì thế, cho dẫu khi anh đang nói về nỗi đau mình đang gánh chịu, ở đó ta vẫn thấy được chất thực và mơ: “Khi có một nỗi đau không thể cùng ai bày tỏ/ Tôi nhìn mắt tôi ngồi vào lặng yên/ Và đếm nỗi đau qua từng hơi thở/ Trái tim nặng nề/ mọc cánh/ bay lên. (Gánh – trích tập thơ Mất và tìm, Thơ Đông Trình, Nxb. Đà Nẵng, 1996).
   
Một điều đặc biệt trong thơ Đông Trình, đó là những cái mơ và thực ấy không biểu hiện một cách dễ dãi mà được thể hiện qua những hình tượng thơ giàu tính triết luận, kết tinh từ sự nghiệm sinh của chính thi nhân trong hành trình sống của mình, nhất là ở những tập thơ được anh viết sau năm 1975, khi anh đã đi qua cái thời lãng mạn của tuổi trẻ để đối diện với cuộc sống thực tại như các tập thơ: Tên gọi mới của hạnh phúc (Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Nam – Đà Nẵng (1982);  Lấm tấm hạt đau (Nxb. Hội Nhà văn, 1990); Mất và tìm, (Nxb. Đà Nẵng, 1996); Hay các tập thơ thiếu nhi như: Những chiếc xe màu lửa, (Nxb. Đà Nẵng, 1992);  Giữa thực và mơ, (Nxb. Đà Nẵng 2009)… mà những bài thơ như: VọngRút được từ biểnXa và gầnĐộc thoại… trong tập thơ Mất và Tìm của anh là một minh chứng cho phẩm tính này: “Phố phường ngồi vọng tiếng chim/ Dây tung – teng vọng bấc tim đèn dầu/ Cao vọng thấp – Thấp vọng cao/ Cánh buồm vôi vọng còn tàu viễn dương.” (Vọng); “Cứ tưởng rồi ra đổi sắc/ Bão bùng quăng quật thế kia/ Mà không – Trời trong gió lặng/ Xanh êm con sóng thầm thì.” (Rút ra từ biển) Bài thơ không nhiều lời nhưng chất chứa trong đó bao điều ngỗn ngang, trở trăn về cuộc nhân sinh mà nếu thi nhân không có sự trải nghiệm cuộc đời thì không khái quát được như thế, đúng như Cao Thế Dụng đã cảm nhận: “Thơ là sự hôn phối và cảm thông linh diệu giữa thực và mơ, giữa người với người và vũ trụ cho nên thi ca gắn liền với hiện hữu và thể hiện qua muôn vẻ.”
      
Đọc thơ Đông Trình ta cứ trôi miên man trong tâm thức giữa thực – mơ mà thơ anh dẫn dụ và chính điều này đã tạo nên một trường tiếp nhận riêng đối với thơ anh trong tầm đón đợi của người đọc. Thơ Đông Trình không phải là thơ của số đông quần chúng như một thời chúng ta từng cổ xúy mà thơ anh là thơ mang tính đối thoại với những người đọc mang nặng ưu tư về cuộc đời, về thân phận trong cõi nhân sinh đẫm đầy nước mắt: “Ngọn lửa đã tắt?/ Không phải đâu lửa đi tìm một cây đèn khác/ Thượng đế sẻn so/ cho em quá ít dầu/ Những câu thơ anh? Chỉ có thể làm ra một cây đèn nước mắt/ Che chắn thế nào, trước cuộc bể dâu?” (Lửa và đèn) Vì vậy, đọc thơ Đông Trình, ngay cả thơ viết cho thiếu nhi ta cũng bắt gặp nơi anh cái tâm thức mơ và thực được thể hiện qua những câu thơ đầy tính triết luận và đây cũng là điều khác biệt của thơ viết cho thiếu nhi của Đông Trình với thơ viết cho thiếu nhi của các nhà thơ khác: “Cành cây/ nâng/ tán lá non/ Mặt sông/nâng/ chiếc thuyền con/ bồng bềnh…/Gió nâng bổng cánh diều lên/ Bàn chân nâng bước người trên đường dài/ Đôi tay/ nâng cháu/ bà ngồi/ Ngày mai/ có một/ mặt trời/ biển nâng…” (Nâng) Có thể nói, khi ta gọi thơ viết cho thiếu nhi, theo tôi cũng chỉ là cách gọi mang tính qui ước nên nó chỉ mang ý nghĩa phân biệt một cách tương đối. Nên dù viết cho thiếu nhi hay cho người lớn thì thơ trước hết phải là thơ. Nghĩa là nó phải có tư tưởng được kết tinh từ những chiêm nghiệm trong cõi nhân sinh, để thắp lên những ước vọng thì thơ mới tồn sinh với cuộc đời. Và nếu không có những điều ấy, thơ cũng chỉ là những câu vần vè minh họa một cách nhạt nhẽo và chắc chắn sẽ không tồn tại trong tâm thức người đọc. Rất may, thơ viết cho thiếu nhi của Đông Trình không rơi vào sự tầm thường ấy mà ở bất cứ bài thơ nào của anh viết cho thiếu nhi cũng ẩn chứa trong đó một bài học nhân sinh đáng quí như các bài thơ: Đom đóm cô đơn, Giao mùa, Hoa và cỏ, Giếng làng, sợi tóc, Đám mây; Quả chuối cau…. Hãy đọc những câu thơ bình dị và sâu sắc này để ta cảm nhận được cái đẹp của thơ thiếu nhi Đông Trình: “Sợi tóc rơi xuống đất/ Năm tháng không đổi màu/ Sợi tóc mọc trên đầu/ Qua thời gian điểm bạc/ Bùi ngùi nhìn sợi tóc/ Bé cảm thương ông bà/ Những lo toan khó nhọc/ Tóc trên đầu trắng ra.” Hay: “Mùa giao cho nhau những gì?/ Mà hè tha thiết ra đi không đành/ Sau mây nắng cứ long lanh/ Dù mưa thu đã bay quanh đất trời…/ Dạt dào là tấm lòng tôi/ Trong mưa nắng sóng biển đời vẫn dâng!” (Giao mùa). Đọc thơ thiếu nhi mà ở đó ta vẫn thấy lấp lánh một thứ ánh sáng của triết luận được kết tinh từ những lớp sóng ngôn từ hư, thực trong cõi thơ Đông Trình. Và có thể nói đi đến tận cùng của cõi thơ chính là sự kết hợp hài hòa giữa phẩm tính hư và thực, dù đó là thơ viết cho đối tượng nào. Bởi nói như Aimé Césaire: “Nhà thơ là một kẻ rất già nua và rất mới mẻ, rất phức tạp và rất giản dị, ở quãng biên thùy đã từng qua lại, giữa mộng và thực, sáng và tối, ẩn và hiện, trong cơn đảo điên bất thần ở nội tâm, y tìm kiếm và nhận được một thứ ám hiệu, tiếng mật ước để hiểu ngầm mà giao ứng, và đi tới mãnh liệt”.

3.
Saint – John Perese đã xác quyết: “Nhà thơ tuy chẳng muốn cũng thấy mình bị ràng buộc vào cuộc chuyển biến của lịch sử. Và trong bi kịch của thời đại, không có sự gì y chẳng quan tâm.”Có thể nói, điều này rất đúng với thơ Đông Trình cũng như những nhà thơ cùng thế hệ với anh khi họ phải sống qua những biến động của lịch sử dân tộc với tư cách là người trong cuộc. Vì vậy, thơ Đông Trình dù đi giữa hai bờ mơ và thực thì vẫn không nằm ngoài những thăng trầm của lịch sử nước nhà mà anh dự phần như một chứng nhân. Đọc thơ Đông Trình ta luôn thấy sự hiện hữu của hiện thực chiến tranh và cuộc sống thời hậu chiến với biết bao nhiêu khê trong kiếp nhân sinh mà một tâm hồn nhạy cảm của một thi nhân như anh, không thể không ưu tư, dằn xé. Song, không chỉ có thế, với khát vọng của một trí thức chân chính đã từng dấn thân vào cuộc đấu tranh cho những điều tốt đẹp của dân tộc, cũng như những nhà thơ cùng thế hệ, Đông Trình luôn mơ ước về một xã hội tốt đẹp, ở đó những giá trị nhân bản được đề cao, để con người được sống trong một “thiên đường” thật sự, chứ không phải là những ước vọng xa vời, mỏng manh, hư ảo từ “Những tín hiệu giữa hư vô…” (tên một tập thơ của Đông Trình). Để rồi, chúng ta cứ mãi xa xót, ân hận, tiếc nuối về những tháng ngày đã qua như chính lời thơ của Đông Trình đã chia sẻ: “Giá như/ Tôi dễ dàng quên/ Dòng sông đêm ấy/ chảy nghiêng về mình…/ Đành thôi thôi thế thôi đành/ Trời tơ một sợi/ Mỏng manh tơ trời.” (Đành thôi)

PGS. TS. TRẦN HOÀI ANH



Thứ Năm, 11 tháng 7, 2019

Văn phong Đoàn Thạch Biền qua các biện pháp tu từ

“Nhà văn Đoàn Thạch Biền là một cây bút giàu kinh nghiệm trong việc sử dụng các biện pháp tu từ trong văn chương. Khảo sát một số tác phẩm của ông đã đưa đến một cảm nhận khá thú vị, đa số tác phẩm của ông đều có một điểm khá đặc biệt khi có cùng một chi tiết để mở đầu và kết thúc một câu chuyện”.
Nhà văn Đoàn Thạch Biền

Văn chương dùng ngôn từ làm chất liệu để xây dựng hình tượng, phản ánh và biểu hiện đời sống. Một thực tế tồn tại trong văn chương là  mỗi một tác giả,  sẽ tái hiện trong độc giả một bức tranh sinh động về các tác phẩm của mình với những ngôn ngôn riêng. Để đưa những ngôn ngữ đó vào tác phẩm một cách thành công và lưu lại những cảm xúc không thể phai nhạt trong lòng đọc giả thì phải thông qua văn phong phù hợp. Chính cái được gọi là văn phong đó đã tạo nên sự đa sắc, dị biệt trong các tác phẩm của nhà văn Đoàn Thạch Biền, qua sự vận dụng của ngôn ngữ, nguyên tắc, quy luật lựa chọn và hiệu quả lựa chọn, cũng như việc sử dụng toàn bộ các phương tiện ngôn ngữ như các biện pháp, phương tiện tu từ ngữ nghĩa, cú pháp, ngữ âmnhằm biểu hiện một nội dung tư tưởng, tình cảm nhất định của ông .

Cũng như nhiều nhà văn viết cho tuổi mới lớn, nhà văn Đoàn Thạch Biềncó một ngôn ngữ văn chương riêng dành cho lứa tuổi này. Ở đó, ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ đối thoại và văn tả cảnh thường thể hiện thành những mẫu câu ngắn, đơn giản mà vẫn biểu đạt được các sắc thái khác nhau tạo ra một nét đặc trưng của văn phong “ông Biền”. Hơn thế nữa, đôi khi các trang văn xuôi cũng gần như thơ và thể hiện khá rõ trong nhiều tác phẩm mà đặc trưng nhất là truyện dài: Những ngày tươi đẹp.

Nét đặc sắc của ngôn ngữ trong tác phẩm của ôngthườngđược biểu hiện quaphương thức ẩn dụ trongviệc mượn những câu ‘kinh điển’(Dẫn ngữ) thường được sử dụng trong các cuộc đối thoại rất bình thường trong cuộc sống,đã đưa độc giả vào một bối cảnh quen thuộc,làm câu chuyện dễ đi vào lòng người hơn. Như vậy, nội dung trong quá trình tiếp nhận sẽ được lĩnh hội thông qua việc liên tưởng đến những “tiền giả định” là những tư tưởng, hoàn cảnh, phong thái của những nhân vật  đã biết trong các bối cảnh đó. Trong những câu chuyện của tác giả, tác dụng chính của phép dẫn ngữ này là khả năng gây cười trước vẻ lù khù, ngu ngơ của nhân vật, chẳng hạn nhưchi tiết “Tôi đành cất giọng vịt đực hát. - Là là lá... là lá la la la là..”.  Tác giả thật sự đang vẽ tranh bằng chữ. Các chữ được lặp đi lặp lại như chiếc cọ vẽ đã phác họa trong tâm trí độc giả một hình ảnh về chàng trai  cù lần , và đó cũng chính là một điểm nhấn có tác dụng chuyển hướng suy nghĩ của nhân vật chính khi hát theo là đã chấp nhận bài nhạc này sau một thời gian ‘ghét cay ghét đắng’, tạo bối cảnh cho nhân vật quan trọng thứ hai xuất hiện, đó là nhân vật nữ với phong thái tiểu thư nhưng dường như ẩn chứa một nỗi niềm tuyệt vọng, cái nỗi niềm đã đưa câu chuyện lên cao trào, cũng chính là tình tiết cảm động nhất của câu chuyện.

Đặc biệt hơn nữa là lối dẫn ngữ có sự chọn lọc, biến đổi cho phù hợp với cốt truyện, với văn cảnh và cũng làm nổi bật lên phong cách của tác giả mang đậm nét khôi hài một cách rất đáng yêu như: “Nghe cô bé trả lời, tôi biết nàng chẳng phải thuộc loại "con nai vàng ngơ ngác" mà là "con nai vàng có sừng”.

Không kém phần quan trọng là Câu giản lược thành phần chủ ngữ và cả động từ chỉ để lại phần túc từ “- Chẳng cứ gì mận. Với tính tham ăn uống của con, cái thứ gì cũng có thể làm cho con đau liệt giường.”, để nhấn mạnh bản tính ‘phàm phu tục tử’ của nhân vật nam chính, đối lập với nhân vật nữ dịu dàng, trong sáng để có thể theo đúng qui luật ‘âm dương tương sinh’, cơ sở của sự phát triển của vạn vật, của tình yêu, của vũ trụ.

Đến đây, ta thấy thêm một dụng tâm rất công phu của nhà văn trong phép tượng trưng được sử dụng trong tác phẩm  “Những ngày tươi đẹp” khitác giả mở đầu câu chuyện bằng một tên bài nhạc rất phổ biến, tượng trưngcho tình yêu, một chi tiết dẫn đến tính chất kịch tính của câu chuyện sau này. “Vừa bước chân lên lầu tôi đã nghe bản Somewhere My Love được em tôi mở volume hết cỡ. Chắc nó muốn dùng nhạc đó thay nhạc đám ma đưa tiễn tôi”. Ở cuộc đối thoại sau, khi nhân vật chính gặp được cô gái mà anh sẽ yêu, lúc này cái tên bài nhạc rất phổ biến của tình yêu này lại một lần nữa xuất hiện như một định mệnh: “Ông hãy cho em nghe bản nào ông thích nhất. Đoạn nhạc dạo vang lên khiến tôi giật mình. Tôi đã bỏ lầm băng nhạc rồi chăng? Không, trong đống băng nhạc của tôi làm gì có bản nhạc quái quỉ đó. Bản nhạc Somewhere My Love. Bây giờ tôi mới hiểu sự "páo thù" của cô em gái tôi. Con nhỏ đã tráo đổi cuốn băng của nó để tôi đem ra ngoài này nghe cho bỏ ghét. Tôi đứng dậy định tắt bản nhạc phải gió đó đi, cô bé đã gật gù nói:

- Không ngờ ông hợp "gout" với em. Em rất thích nghe bản Somewhere My Love,….
Được cô bé nhận là hợp gout, tôi không dám đính chính, đành ngồi im trên giường, bậm môi cố gắng chịu đựng cho bản nhạc của nợ qua đi.”

Thêm một lần nữa, bản nhạc định mệnh lại xuất hiện minh chứng cho tình yêu mãnh liệt của nhân vật chính: “Nhưng bức tranh vẫn chưa đủ giúp tôi liên tưởng dễ dàng đến cô bé. Tôi phải mở cassette nghe thêm bản nhạc trời đánh Somewhere My LoveNhờ bản nhạc hợp gout với cô bé (nhưng chẳng hợp gout với tôi tí nào), tôi đã hình dung ra cô bé rất rõ ràng, mỗi khi muốn nhớ đến em.”

Và rồi lần cuối cùng “Somewhere My Love” đã xuất hiện những trong tâm trạng “Thối chí. Nản lòng. Buồn rầu”. Chẳng biết làm gì hơn tôi mở cassette nghe bản nhạc phải gió Somewhere My Love. Đã buồn cho buồn luôn. Đã rầu cho rầu luôn. Thử xem buồn rầu có vật tôi chết không. Tôi nghĩ vậy và leo lên giường nằm chờ chết. Và từ “chết’ đã xuât hiện đánh dấu bước ngoặc cuối cùng của câu chuyện, nhẹ nhàng đưa đọc giả từ từ tiến ra khỏi vườn địa đàng của tình yêu để đến với  thế giới hiện thực, đó là sự chia ly, chia ly khi mà mọi viễn ảnh tốt đẹp vẫn còn ở phía trước: “Tôi buồn bã ngước nhìn trời cao lấp lánh sao. Lạy chúa, xin Ngài đừng cho cô bé lên Thiên đàng sớm. Chắc Ngài cũng hiểu cô bé còn quá nhỏ để phải lên Thiên đàng sớm.”.

Tronglời tự sự đau buồn của nhân vật chính, nhà văn  đã sử dụng phép Ẩn dụ, một biện pháptu từkhông gọi thẳng tên đối tượng biểu đạt mà để người đọc phải tự tìm đến đối tượng biểu đạt theo các quy luật của văn cảnh, của sự tương đồng logic, của thói quen thẩm mĩ, để dần phát hiện ra một nguyên nhân sâu xa của sự ra đi của người con gái luôn ngự trị trong tim anh.

Em đúng đó, trước mặt tôi, giữa nhiều người, mắt dõi nhìn những hòn bi một cách trìu mến. Đã nhiều lần tôi bắt gặp cái nhìn cảm thông với sự vật, nhưng dửng dưng với người khác của em.

Tại sao em có cái nhìn kỳ quặc đó? Phải chăng chỉ sự vật mới gần gũi với em vì chúng hiểu được vết đen trong đời sống em, đời sống mà bên ngoài đã được phủ che bằng màu hồng rực rỡMàu hồng kia chắc chắn là sự giàu có, vẻ vui tươi và những nụ cười thường nở trên môiNhưng vết đen kia có phải là cái chết không rời trong tâm hồn em như lời người mẹ nói?

Có phải  hạt giống "cây hủy diệt" đang đâm chồi trong em và thường khiến em rùng mình băn khoăn?

Đồng tiền có hai mặt, ai mà chẳng biết vậy. Trăng tròn đầy trong đêm rằm chính là lúc bắt đầu có hình dạng méo mó, ai mà chẳng biết vậy. Khi đời sống dâng cao như ngọn thủy triều thì cái chết đã nằm ở đầu sóng ùa đổ, ai mà chẳng biết vậy. Thôi dẹp ngay đầu óc phân tích tâm lý người khác bằng cách dựa vào giác quan đi. Hãy nhìn ngọn thủy triều đang dâng và quên đi sự ùa đổ...

Đoạn văn này đã thấm đượm triết lý nhân sinh, quy luật của tạo hóa, của sự hình thành và hủy diệt muôn đời không ai có thể tránh khỏi. Tuy biết vậy nhưng trong từng con người vẫn luôn tồn tại niềm hy vọng, và đó cũng là mầm sống luôn đâm chồi nảy lộc cũng như ngọn thủy triều đang dâng. Vì vậy, qua ẩn dụ tu từ, người ta có thể nhận ra những nét riêng thuộc về người sử dụng. Chỉ trong một đoạn ngắn, tác giả đã gợi lên toàn bộ trạng thái tâm lý của con người và quy luật phát triển của vũ trụ.

Tuy nhiên, có lẽ biện pháp So sánh tu từ là nhiều nhất, gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mĩ để tạo nên những hình ảnh sinh động của nhân vật như trong đoạn:Mặt trời mọc lơ lửng trên mặt biển xanh thẫm như một quả bóng bóng bay màu đỏ rực, đang chuyển dần sang màu vàng óng. Không khí ấm áp dần, nhưng tôi lười biếng không còn muốn nhảy xuống biển. Khi một người đàn ông đã có nhân tình rồi, chẳng ai còn thích gần gũi với bà vợ của mình, dù cho đó là bà vợ biển có tấm lòng bao la như lòng mẹ.” cũng chính là diễn tả tâm trạng đang yêu của nhân vật chính, đan xen với những sự ví von khôi hài “Tình yêu đang nhẹ nhàng như cánh bướm đến với em, em hãy mở rộng trái tim đón nó. Nếu em bỏ chạy, Ngọc sẽ buồn vì nàng có cảm tưởng tình yêu của nàng nặng nề như con voi, khiến kẻ khác phải hoảng sợ.” làm giảm nhẹ tính chất bi câu chuyện, tạo sự hoàn hảo như quy luật phát triển của vũ trụ, khởi đầu là sự hài hòa của âm và dương, của vui và buồn.

Và sự thay đổi thay đổi trong thời khóa biểu sống của nhân vật chính đã dẫn đến  một bi kịch, một niềm thương tiếc về sau, với những giọt lệ thầm vẫn còn long lanh, vương vấn mãi không nguôi, có lẽ bởi vì : Cô bé đã nói đúng "Không nên làm sai cái gì mình đã hoạch định. Chỉ cần làm sai một lần rồi sẽ sai mãi". Hôm qua, tôi đã sống sai với thời khóa biểu cũ và hôm nay tôi cũng ăn sáng sai với giờ giấc ghi trong thời khóa biểu mới. Có thật rồi tôi sẽ sai mãi?

Thậm xưng trong ước nguyện tuy ngây thơ nhưng đã thể hiện tình yêu mãnh liệt của nhân vật chính :
- Tôi sẽ kéo dài giấc mộng đến một triệu năm nữa.

- Em khỏe mạnh mãi mãi. Khỏe mạnh suốt đời. Khỏe mạnh muôn năm.

Tuy là ‘ngoa dụ’ nhưng sự thật chẳng ‘ngoa’ tí nào, mà đó là sự chân thành, sự níu giữ người yêu từ bàn tay tử thần, sự níu giữ một tình yêu để thoát khỏi một định mệnh khắc nghiệt về ‘sự mong manh của một đóa phù dung’.

Tôi” và ‘’em’’, ‘’em’’ và ‘’ông’’ là nét đặc trưng đã làm nên cái gọi là ‘văn phong Đoàn Thạch Biền’. Lối xưng hô ‘đặc biệt’ này cũng đã được ông lập luận khá ‘đặc biệt’ qua lối ‘điệp từ’ và ‘chơi chữ’ cũng rất đặc biệt như sau:

- Chắc em cũng biết Pascal đã nói câu: "Cái tôi là cái đáng ghét".
- Phải. Tôi đã làm một bài luận về câu nói đó.

- Như vậy em bỏ xưng"tôi" được không?
- Tại sao?

- Ở tuổi em, xưng"tôi" là cái đáng ghét.
- Được rồi "em" đồng ý với điều kiệnông phải tiếp tục xưng "tôi".

- Tại sao tôi không được phép dùng tiếng"anh" cho ngọt ngào.
- Vì ông xứng đáng với tiếng "tôi" đáng ghét.

 Nhân vật nam chính của tác giả thường có vẻ ‘phớt đời, mặc kệ nó’ mọi chuyện :

- Tôi mong Ngài sẽ "phù hộ" tôi, trong khi tôi viết tập tiểu luận.
- Ông không tin vào tài năng của ông?
- Tôi chỉ tin vào sự lười biếng của tôi.

Nhưng đôi khí cái nét ‘phớt đời, mặc kệ nó’ lại còn pha lẫn một chút ‘ngang tàng’ trong lối lập luận khá ‘sở khanh’ như: “Tình em là tình đầu trong đời, tình anh là tình cuối trong tháng. Hai thứ tình đó đâu có giống nhau”.

 Hay thể hiện trong lối chơi chữ đối nghĩa của đoạn hội thoại  sau:

- Không. Nó trọng cậu. Muốn trọng ai người ta phải giữ một khoảng cách.

Phải cần một khoảng cách người ta mới trọng nhau được?    

- Tôi cóc cần được trọng. Tôi muốn cô bé khinh tôi, để tôi được gần emtrong lúc bệnh hoạn. Nhưng làm thế nào để em khinh tôi bây giờ?

Cũng như trong lối chơi chữ của chữ ‘ghét’ thật độc đáo, không dễ gì nghĩ ra được khi dùng thủ pháp so sánh diễn đạt sự đối nghĩa một cách tuyệt vời:

- Nhưng ông hãy hứa sẽ nói ghét em cho em vui lòng nghe ông.

- Tôi thở dài: Ừ tôi hứa. Tôi ghét em như tôi ghét tôi.

Hoặc bằng cách Nhân hóa: “mặt trời còn ngủ say dưới nước biển xanh đen”. Đoàn Thạch Biền làm người ta có thể tâm tình, trò chuyện với đối tượng không phải người như tâm tình trò chuyện với con người, để chúng trở nên gần gũi hơn, dễ  hiểu hơn với độc giả. Và rồi một lần nữa, hình ảnh mặt trời đã được nhân hóa gợi lên một cảnh  hủy diệt của cái chết: “… Biển là nấm mồ của mặt trời. Ông nhìn kìa, nó đã chôn mặt trời ở dưới.”  và đây cũng chính là lối dẫn đến  một hồi kết đau thương và rất cảm động. Tuy nhiên, sự dang dở này chính là hình ảnh của sự hoàn mỹ vì ‘tình chỉ đẹp khi còn dang dở”’. Nữ nhân vật chính đã thành công khi đã lưu lại trong lòng người yêu hình ảnh đẹp của cô mãi mãi “Em đang đánh nhau với thần chết. Chẳng nên nhìn em lúc này. Trông em ghê gớm lắm.”. Cuộc tình lãng mạn đó sống mãi ở những ngày tươi đẹp dù cho vẫn còn đó long lanh những giọt lệ thầm, vì đó cũng chính là quy luật tồn tại của thiên nhiên: có dương thì phải có âm, có vui thì phải có buồn, có như vậy thì âm dương mới hài hòa, vận vật mới phát triển theo đúng quy luật của nó.

Hơn thế nữa, kỹ thuật tạo hiệu ứng văn chương của tác giả đã  kết hợp nhiều biện pháp tu từ trong cùng một câu như một vài đoạn tự sự sau:

 “Tôi buồn cười cho tính của em giống hệt tính của tôi ngày xưa. Ăn không được thì đạp đổ. Nhưng khổ nỗi những gì mình ghét và muốn đạp đổ thường khiến mình phải nhớ đến, nghĩ đến nhiều hơn. Tình "thù" vẫn khiến người ta khó quên hơn tình "thương”.” Là sự kết hợp giữa phép so sánh tu từ  “tính của em giống hệt tính của tôi ngày xưa” và phép dẫn ngữ  “Ăn không được thì đạp đổ”đồng thời phép điệp từ ngữ cũng xuất hiện trong từ ‘mình ghét, mình phải nhớ đến, nghĩ đến..Và điệp từ ngữ đối lập trong cặp từ Tình "thù" - tình "thương”.

Hoặc lối đột giáng được kết hợp với phép dẫn ngữ và điệp từ ngữ còn làm người đọc bị ‘quay 180 độ’ về tính cách của nhân vật Minh, vốn rất thực tế kiểu ‘con buôn’, đã được nhân vật chính dùng để cố tạo hình tượng ‘đẹp’ trong lòng người Minh yêu, một y tá : “Vậy Ngọc hãy gọi Minh là "anh". Bù lại Minh sẽ gọi Ngọc là "em" vậy là huề. Minh biết rằng "yêu là đau khổ". Nhưng Minh vẫn sẵn sàng chấp nhận khổ khi yêu Ngọc. Minh cũng biết rằng tình yêu không thể nào "cho không, biếu không", một cách khơi khơi mà phải "mua đàng hoàng” và Minh cũng sẵn sàng"mua" tình yêu của Ngọcvới giá cao nhất, đó là mạng sống của Minh”.

 Nhà văn Đoàn Thạch Biền là một cây bút giàu kinh nghiệm trong việcsử dụng các biện pháp tu từ trong văn chương. Khảo sát một số tác phẩm của ông đã đưa đến một cảm nhận khá thú vị, đa số tác phẩm của ông đều có một điểm khá đặc biệt khi có cùng một chi tiết để mở đầu và kết thúc một câu chuyện. Điều này đã cho ta cảm giác của sự khép kín của một vòng tròn như đang thể hiện mong muốn viên mãn của tác giả đối với cuộc sống, đối với những câu chuyện tình còn dang dở.

THẠCH THANH
Theo NVTPHCM

 TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM KHÁC:




BÀI ĐĂNG MỚI NHẤT

Nguyễn Phan Quế Mai: Hãy nói về cuộc đời

Xe vút đi trên những con đường cao tốc, còn tôi thì ngồi đó, lặng người trong giai điệu trầm bổng của Khúc Thụy Du. Mùa hạ California nở bun...